Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 40/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

BảN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự “Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn”, thụ lý số 96/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị M. D Sinh năm: 1972 Địa chỉ: 129/5 Đường P khu phố N phường T thành phố T tỉnh L.

- Bị đơn: Ông Phan T. K Sinh năm: 1971 Địa chỉ: 129/5 Đường P khu phố N phường T thành phố T tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Lê Thị M. D trình bày: Sau gần một năm tìm hiểu, bà và ông K chung sống với nhau từ năm 1989. Đến năm 2003, bà và ông K đăng ký kết hôn. Do không tìm hiểu kỹ và kết hôn khi tuổi đời còn trẻ nên vợ chồng chung sống không hòa hợp, ông K không quan tâm đến gia đình, bản thân bà phải tự lo cho chồng và con. Thời gian đầu, vì thương con còn nhỏ nên bà cố chịu đựng. Thế nhưng, càng về sau, vợ chồng càng mâu thuẫn trầm trọng, bà đã nhiều lần bỏ về nhà mẹ ruột và có ý định ly hôn song khi nghĩ đến con thì bà tiếp tục chung sống cùng ông K. Khoảng bốn năm trở lại đây, ông K còn sử dụng ma túy, khi phát hiện, bà có khuyên can nhưng không có kết quả. Sau đó, do ông K bị bệnh, phải làm phẫu thuật nên bà vẫn hy vọng ông sẽ không sử dụng ma túy nữa. Thế nhưng, ông K vẫn không thay đổi. Vợ chồng vì việc đó mà bất hòa và ông K đã đuổi bà. Tình cảm vợ chồng không còn, sức chịu đựng của bà đã vượt quá giới hạn nên bà và ông K không chung sống cùng nhau từ tháng 02 năm 2021. Do vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông K.

Về con chung, bà và ông K có ba người con chung, tên là Phan Lê Tuấn Phát, sinh ngày 31 tháng 3 năm 1990, Phan Lê Quang Huy, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1995 và Phan Lê Mỹ Uyên, sinh ngày 29 tháng 5 năm 2009. Hai con trai đã thành niên, riêng Mỹ Uyên, do hiện tại, bà đang sống nhờ nhà người thân và do tính chất công việc nên không thể trực tiếp nuôi con, vì vậy, bà để ông K trực tiếp nuôi con, bà sẽ cấp dưỡng nuôi con theo khả năng của mình.

Về tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Phan T. K đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng. Do đó, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình tố tụng. Về nội dung, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và giải quyết các vấn đề khác theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Phan T. K và bà Lê Thị M. D là vợ chồng. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông K và bà D không hòa hợp, nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn là ông K không quan tâm đến gia đình, có hành vi sử dụng ma túy. Mặc dù, bà D đã cố gắng để giải quyết mâu thuẫn nhưng không kết quả. Không thể kéo dài tình trạng hôn nhân hiện tại, bà Lê Thị M. D khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Phan T. K. Theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố T thụ lý và giải quyết vụ án.

[2] Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh L đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng bị đơn Phan T. K vẫn không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, ngày 31 tháng 5 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố T đã lập Biên bản về việc không kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ được và Biên bản không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân thành phố T đưa vụ án ra xét xử, ông Phan T. K vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa ngày 14 tháng 6 năm 2021 và ngày 30 tháng 6 năm 2021, ông K cũng không tham gia phiên tòa; Bà Lê Thị M. D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố T xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Bà D và ông K xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2003 nên áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình (năm 2000) để giải quyết về nội dung theo quy định tại Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Ông Phan T. K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng, thể hiện thái độ không quan tâm, mặc kệ hậu quả. Đồng thời, ông K cũng không có bất cứ hành vi nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy, khó có khả năng để vợ chồng đoàn tụ. Tình trạng hôn nhân không hạnh phúc. Cho nên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Về con chung, nguyên đơn và bị đơn có ba người con chung, tên là Phan Lê T.P, sinh ngày 31 tháng 3 năm 1990, Phan Lê Q. H, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1995 và Phan Lê M. U sinh ngày 29 tháng 5 năm 2009. Hai người con đã thành niên, riêng Phan Lê Mỹ Uyên, do hoàn cảnh hiện tại, bà D không có điều kiện để trực tiếp nuôi con nên bà để ông K trực tiếp nuôi con. Yêu cầu này của bà phù hợp với nguyện vọng của M. U, thể hiện tại văn bản viết tay do M. U viết ngày 02 tháng 6 năm 2021 nên Tòa án chấp nhận. Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, do ông K không tham gia tố tụng, không thể hiện ý kiến của mình nên Tòa án không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung, do không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[7] Về án phí: Bà Lê Thị M. D phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 89, Điều 91, Điều 92, Điều 93 và Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000), Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 238, Điều 272 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị M. D đối với ông Phan T. K.

Về con chung: Sau khi ly hôn, ông Phan T. K là người trực tiếp nuôi con chung, tên là Phan Lê M. U, sinh ngày 29 tháng 5 năm 2009. Bà Lê Thị M. D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Lê Thị M. D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung; không ai được cản trở bà D thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc hai bên đương sự có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con; yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Về án phí: Bà Lê Thị M. D chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng. Chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà D đã nộp (theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005322 ngày 13 tháng 4 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tỉnh L) thành án phí sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

495
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 40/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;