TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 78/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 07/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022 và các Quyết định hoãn phiên tòa, giữa:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hồng V, sinh năm 1971.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 39 (nay là số 69), phố T, phường P, Thành phố H, tỉnh Hải Dương.
Hiện đang cư trú tại: Sophienstrasse.9-76133 Karlsuhe bang Baden - Wurttemberg - Cộng hòa liên bang Đức (BRD).
Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người được bà V ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Ông Trần Toàn T, sinh năm 1967. Địa chỉ: Số 69 T, phường P, Thành phố H, tỉnh Hải Dương (Theo giấy ủy quyền đã được Tổng lãnh sự quán CHXHCN Việt Nam tại CHLB Đức chứng thực ngày 16/11/2021).
- Bị đơn: Ông Phan Ngọc Th, sinh năm 1969.
Địa chỉ: Số 24, phố S, phường P, Thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Hồng V trình bày: Bà và ông Phan Ngọc Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, thị xã H, tỉnh Hải Hưng (nay là Thành phố H, tỉnh Hải Dương) vào ngày 14/11/1992. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 1998 thì cùng sang lao động tại Cộng hòa liên bang Đức, thời gian ở nước ngoài vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Năm 2000 ông Th về nước, còn bà vẫn làm ăn sinh sống tại Cộng hòa liên bang Đức, vợ chồng sống xa cách từ đó cho đến nay, không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Phan Ngọc Th.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phan Ngọc H, sinh ngày 02/10/1994, hiện đã trưởng thành và đã có gia đình riêng nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Hiện bà V đang lao động tại Cộng hòa Liên bang Đức nên bà ủy quyền cho ông Trần Toàn T thay bà giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án, đồng thời đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
- Tại biên bản lấy lời khai - bị đơn ông Phan Ngọc Th trình bày: Ông và bà Trần Thị Hồng V có quan hệ hôn nhân như bà V trình bày là đúng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 1998 thì cùng sang lao động tại Cộng hòa liên bang Đức, thời gian ở nước ngoài vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Năm 2000 ông về Việt Nam sinh sống, từ đó ông và bà V ít liên lạc và không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay ông xác định cả hai không còn tình cảm, tuy nhiên ông chỉ đồng ý ly hôn khi bà V về Việt Nam để giải quyết việc hôn nhân và phải trả cho ông 1 khoản tiền, vì khi vợ chồng còn chung sống làm được bao nhiêu tiền ông đều đưa hết cho bà Vân.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phan Ngọc H, sinh ngày 02/10/1994, hiện đã trưởng thành nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người được bà V ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng tại Tòa án - ông Trần Toàn T trình bày: Ông Trần Toàn T là người được bà V ủy quyền giao, nhận các văn bản tố tụng trình bày: Ông là anh trai của bà V. Ông nhất trí nhận sự ủy quyền của bà V. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án ông đã thông báo lại cho bà V biết, bà V vẫn nguyên quan điểm như đã trình bày.
Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương nơi bà V, ông Th đăng ký kết hôn và sinh sống. Kết quả xác minh cho thấy: Bà Trần Thị Hồng V hiện đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài, vợ chồng sống ly thân nhiều năm nay, mâu thuẫn cụ thể như thế nào địa phương không nắm được. Đối với ông Th hiện tại ông Th đang sinh sống tại số nhà 24 Ngân Sơn, phường Trần Phú, Th phố Hải Dương và đã có cuộc sống riêng, có con riêng. Nay bà V có xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Trần Thị Hồng V ly hôn ông Phan Ngọc Th. Con chung đã thành niên nên không xem xét giải quyết; Về tài sản chung: không xem xét. Về án phí: Bà V phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn bà Trần Thị Hồng V có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở số 39 (nay là số 69), phố T, phường P, Thành phố H, tỉnh Hải Dương. Hiện đang sinh sống, làm việc tại Sophienstrasse.9-76133 Karlsuhe bang Baden - Wurttemberg - Cộng hòa liên bang Đức (BRD). Ông Phan Ngọc Th có nơi cư trú: Số 24, phố S, phường P, Thành phố H, tỉnh Hải Dương. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Bà V không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng bà đã gửi các tài liệu gồm: Đơn xin ly hôn, bản tự khai, đơn xin giải quyết vắng mặt và giấy ủy quyền, các tài liệu này đã được Tổng lãnh sự quán CHXHCN Việt Nam tại Frankfurt am Main - CHLB Đức chứng thực. Do vậy có đủ cơ sở khẳng định ý chí, quan điểm ly hôn của bà Vlà hoàn toàn tự nguyện. Bà V có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt, ông Th vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Hồng V và ông Phan Ngọc Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, thị xã H, tỉnh Hải Hưng (nay là thành phố H, tỉnh Hải Dương) vào ngày 14/11/1992 nên là hôn nhân hợp pháp. Ông, bà chung sống hạnh phúc đến năm 1998 thì cùng sang lao động tại Cộng hòa liên bang Đức, trong thời gian sống chung ở nước ngoài vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Năm 2000 ông Th về nước còn bà V vẫn làm ăn, sinh sống tại Cộng hòa liên bang Đức. Vợ chồng sống xa cách từ đó cho đến nay không ai quan tâm đến ai và không liên lạc với nhau. Nay, bà V và ông Th đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, bà V có đơn xin ly hôn nhưng ông Th không nhất trí. Ông Th chỉ đồng ý ly hôn khi bà V về Việt Nam và phải trả cho ông một khoản tiền. Hội đồng xét xử thấy căn cứ lời khai của ông Th, bà Vân, căn cứ kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường P cho thấy, thực tế ông Th, bà V sống ly thân với nhau đã lâu, không còn quan tâm đến nhau. Ông Th hiện cũng đã có cuộc sống riêng. Do vậy có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa ông Th, bà Vđã trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho bà Vđược ly hôn ông Th.
[2.2] Về quan hệ con chung: Bà V và ông Th có 01 con chung là Phan Ngọc H, sinh ngày 02/10/1994, hiện đã trưởng thành nên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà V xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với yêu cầu của ông Th về việc yêu cầu bà V phải trả cho ông một khoản tiền. Tuy nhiên ông không đưa ra yêu cầu cụ thể cũng như không có đơn yêu cầu và các căn cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về nội dung này nếu có căn cứ ông Th có quyền khởi kiện bà V bằng một vụ án khác.
[3]. Về án phí: Bà Trần Thị Hồng V phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Hồng V 1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Trần Thị Hồng V ly hôn ông Phan Ngọc Th. quyết.
2. Về quan hệ con chung, tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải 3. Về án phí: Bà Trần Thị Hồng V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí, theo biên lai thu số AA/2020/0004676 ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương (do ông Trần Toàn T nộp thay). Bà Vđã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bà Trần Thị Hồng V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Ông Phan Ngọc Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về ly hôn (nguyên đơn đang sống tại nước ngoài) số 78/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 78/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về