Bản án về ly hôn giữa chị N1 và anh T1 số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ N1 VÀ ANH T1

Ngày 15 tháng 04 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 253/2021/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2021 về Tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 03 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đặng Thị N1, sinh năm 1983; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi cư trú: Thôn B1, xã T2, huyện T3, tỉnh Thái Bình; Vắng mặt- có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Đỗ Quang T1, sinh năm 1974; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi cư trú: Thôn B1, xã T2, huyện T3, tỉnh Thái Bình; Vắng mặt- lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai đề ngày 15- 11- 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án , nguyên đơn là chị N1 trình bày: Chị và anh T1 cùng ở xã T2, tự nguyện đăng ký kết hôn; đã được Ủy ban nhân dân xã T2 cấp giấy chứng nhận kết hôn số 07 ngày 09 tháng 02 năm 2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại gia đình chồng. Tháng 12- 2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Do vợ chồng mâu thuẫn nên từ tháng 02- 2021, chị đã về sinh sống tại nhà bố mẹ chị ở thôn C1; sau đó thuê nhà ở thôn C1 để làm ăn và sinh sống. Từ đó, vợ chồng không sống chung với nhau, không còn thương yêu nhau, cũng không quan tâm chăm sóc nhau nữa. Chị xác định: Vợ chồng đã vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị có đơn xin ly hôn. Hiện nay, chị không mang thai. Vợ chồng có hai con chung là Đỗ Phương T4, sinh ngày 16 tháng 03 năm 2002; Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011. Con T4 đã thành niên nên chị không yêu cầu giải quyết. Hiện nay, cả hai anh chị đều đang nuôi con V1 thể hiện: Hàng ngày, bữa trưa thì con ăn cùng chị; bữa tối thì ăn cùng anh, tối con chung ngủ cùng anh. Chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi con V1; chị không yêu cầu anh cấp dưỡng; chị đồng ý để con vẫn đi về với bố. Chị kinh doanh hải sản nên chủ động về thời gian, có thu nhập khoảng 20.000.000đồng/tháng; chị thuê nhà làm ăn và sinh sống nên có chỗ ở ổn định. Chị không đồng ý để anh trực tiếp nuôi con vì anh đi làm từ 05 giờ 30 sáng đến 17 giờ 30 chiều mới về; không có thời gian chăm sóc con. Vê tai san chung: Chị không yêu cầu giải quyết. Vợ chồng không có nợ chung, không có ai nợ vợ chồng nên chị không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 08- 03- 2022 và trong quá trình giải quyết, bị đơn là anh T1 trình bày: Anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T2. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại gia đình anh. Tháng 12- 2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Do vợ chồng mâu thuẫn nên từ tháng 02- 2021, chị N1 đã về nhà bố mẹ đẻ chị ở thôn C1, cùng xã T2 làm ăn và sinh sống. Anh không đồng ý ly hôn vì anh muốn đoàn tụ. Tuy muốn đoàn tụ nhưng anh không có biện pháp hòa giải mâu thuẫn vợ chồng. Vợ chồng có hai con chung là Đỗ Phương T4, sinh ngày 16 tháng 03 năm 2002; Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011. Con T4 đã thành niên nên anh không yêu cầu giải quyết. Hiện nay, cả hai anh chị đều đang nuôi con V1 như chị N1 trình bày. Anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi con V1, yêu cầu chị N1 cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Lý do anh có nguyện vọng nuôi con là: Năm 2017, anh bị thoát vị đĩa đệm nên anh muốn nuôi con để sau này còn nhờ con trông nom, chăm sóc anh. Hiện nay, anh làm việc tại Công ty TNHH X tại xã T5, huyện T3, thu nhập 3.400.000đồng/tháng; thời gian làm việc từ 05 giờ 30 đến 17 giờ 30. Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng không có nợ chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn đề nghị ngày 18- 11- 2022, con chung của anh chị là Đỗ Quang V1 có nguyện vọng ở với mẹ.

Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T2: Anh T1, chị N1 đều là công dân xã T2. Ngày 09 tháng 02 năm 2001, anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại gia đình anh T1;

đến tháng 12 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Ngoài ra, anh T1 bị thoát vị đĩa đệm nên cuộc sống bị ảnh hưởng. Chị N1 đã về nhà bố mẹ đẻ, sau đó thuê nhà ở thôn C1 sinh sống và làm nghề chế biến, kinh doanh hải sản. Anh chị có hai con chung là Đỗ Phương T4, sinh ngày 16 tháng 03 năm 2002; Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011. Cháu T4 đã trưởng thành, đi học tại Hà Nội. Do đặc điểm công việc của anh T1 sáng đi, chiều về nên cháu V1 buổi trưa ăn cùng chị N1; tối ăn và ngủ cùng anh T1. Anh chị có một ngôi nhà ống xây dựng trên thửa đất của bố mẹ anh T1 nhưng anh chị không yêu cầu giải quyết; không có cá nhân, tổ chức nào có ý kiến về nợ chung của anh chị. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Khi Tòa án tiến hành hòa giải, các đương sự không thỏa thuận được nên hòa giải không thành; vụ án phải đưa ra xét xử.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đúng quy định của pháp luật. Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 25 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Kiểm sát viên đề nghị: Xử cho chị N1 ly hôn anh T1. Về con chung: Vợ chồng chị N1- anh T1 có hai con chung là Đỗ Phương T4, sinh ngày 16 tháng 03 năm 2002; Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011. Con T4 đã thành niên nên không đặt ra giải quyết. Giao con chung Đỗ Quang V1 cho chị N1 trực tiếp nuôi dưỡng; chị N1 không yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Chị N1 phải nộp án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa lần thứ nhất, lần thứ hai bị đơn đều vắng mặt. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị N1 và anh T1 là tự nguyện và hợp pháp. Tháng 12-2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn; do vợ chồng mâu thuẫn nên từ tháng 02- 2021, chị N1 bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Anh T1 tuy có nguyện vọng đoàn tụ nhưng anh không có biện pháp hòa giải mâu thuẫn nên vợ chồng vẫn không sống chung với nhau, không quan tâm chăm sóc nhau nữa. Trong quá trình giải quyết, mặc dù được hòa giải nhưng chị N1 vẫn kiên quyết xin ly hôn. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị N1, anh T1 đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị N1 ly hôn anh T1.

[3].Về con chung:

[3.1]. Vợ chồng chị N1, anh T1 có hai con chung là Đỗ Phương T4, sinh ngày 16 tháng 03 năm 2002; Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011. Con T4 đã thành niên nên chị N1, anh T1 đều không yêu cầu giải quyết. Chị N1, anh T1 đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đỗ Quang V1.

[3.2]. Chị N1, anh T1 đều có công việc, thu nhâp ôn đinh, có chỗ ở, có điều kiện chăm soc con . Anh T1 đang sinh sống trên ngôi nhà vợ chồng sinh sống từ trước trong khi chị N1 phải thuê nhà nên về chỗ ở anh T1 thuận lợi hơn. Thu nhập của anh T1 là 3.400.000đồng/tháng; thời gian đi làm từ 05 giờ 30 đến 17 giờ 30 nên điều kiện chăm sóc con của anh T1 có phần hạn chế. Mặt khác, anh T1 bị thoát vị đĩa đệm nên nếu giao con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng con thì anh gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc con chung. Ngược lại, chị N1 có thu nhập cao hơn, lại thuận lợi về thời gian chăm sóc con hơn. Con chung có nguyện vọng sống cùng mẹ. Vì vậy, cần áp dụng Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị N1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đỗ Quang V1. Chị N1 không yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu nên không đặt ra án giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn là chị N1 phải chịu 300.000,đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 227; Điều 228; Điều 238; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị N1 ly hôn anh Đỗ Quang T1.

2. Về con chung: Vợ chồng chị N1, anh T1 có hai con chung là Đỗ Phương T4, sinh ngày 16 tháng 03 năm 2002; Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011.

-Con chung Đỗ Phương T4 đã thành niên, nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

-Xử giao con chung Đỗ Quang V1, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2011 cho chị N1 trực tiếp nuôi dưỡng. Chị N1 không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con chung.

-Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị N1 phải nộp toàn bộ 300.000,đồng án phí ly hôn; được trừ vào số tiền 300.000,đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004004 ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Chị N1 đã nộp đủ án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn giữa chị N1 và anh T1 số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;