TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 41A/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ M VÀ ANH KH
Ngày 07 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 376/2020/TLST - HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020 về việc "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị M, sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình
- Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến Kh, sinh năm 1978 Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
(có mặt chị M, vắng mặt anh Kh)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện,Bản lấy lời khai nguyên đơn chị Phạm Thị M đã trình bày: Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Tiến Kh, sinh năm 1978 tự nguyện tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q vào ngày 18 tháng 05 năm 2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc với nhau được có 20 ngày là phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Kh uống rượu và đánh, chửi chị. Chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống tại Thôn C, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Trong thời gian sống ly thân không ai quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không có khả năng đoàn tụ gia đình mong muốn của chị được ly hôn với anh Nguyễn Tiến Kh.
Về con chung: Chị và anh Kh không có con chung.
Về tài sản chung nợ chung: Chị và anh Kh tự thỏa thuận tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là anh Nguyễn Tiến Kh trong quá trình giải quyết vụ án anh Kh đã cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tiến hành xác minh với Ủy ban nhân dân xã Q, Trưởng thôn T và ông Nguyễn Tiến Ph là bố đẻ của anh Kh thể hiện: Về hôn nhân: Chị Phạm Thị M, sinh năm 1982 và anh Nguyễn Tiến Kh, sinh năm 1978 tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào năm 2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn phát sinh mâu thuẫn. Hiện nay chị M và anh Kh đã sống ly thân mỗi người một nơi. Vợ chồng không còn tình cảm nên chị M đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình giải quyết cho chị được ly hôn anh Kh. Anh Kh biết việc chị M khởi kiện xin ly hôn nhưng không đến Tòa án để làm việc. Về con chung: Chị M và anh Kh không có con chung. Về tài sản chung nợ chung: đề nghị giải quyết theo pháp luật. Ngoài ra ông Ph còn cung cấp thêm thông tin “Anh Kh đã biết việc chị M khởi kiện ly hôn và thông qua trao đổi điện thoại anh Kh cũng đồng ý ly hôn với chị M vì tình cảm vợ chồng không còn và đã biết Tòa án thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng do công việc cho nên anh Kh không về Tòa án để giải quyết và cũng không cung cấp địa chỉ mới”.
Tại Biên bản xác minh ngày 02/4/2021 với ông Đào D- công chức Tư pháp xã Q thể hiện: Anh Kh có về Ủy ban nhân dân xã Q chứng thực sổ hộ khẩu, giấy khai sinh để làm thẻ căn cước công dân gắn chíp. Thông qua việc này ông D đã thông báo cho anh Kh biết việc chị M làm đơn khởi kiện ly hôn và có Giấy triệu tập cùng các văn bản tố tụng khác được niêm yết tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Q nhưng anh Mùi cho biết: “Chị M làm đơn khởi kiện ly hôn anh đã biết và cũng nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh không đến Tòa án để làm việc và anh Kh cũng không cung cấp địa chỉ mới”.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã cơ bản tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng và chấp hành chưa tốt pháp luật tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị M khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Kh có hộ khẩu Thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Ngày 07 tháng 5 năm 2021 Tòa án đã tiến hành xét xử nhưng vắng mặt anh Kh cho nên Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa, căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Kh.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự, vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Chị M và anh Kh tự nguyện tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q vào ngày 18/5/2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, trong quá trình chung sống không còn tình cảm vợ chồng. Chị M, anh Kh đã sống ly thân, kể từ tháng 6 năm 2020 cho đến nay. Trong thời gian ly thân không ai quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, mẫu thuẫn đã trầm trọng không có khả năng đoàn tụ gia đình. Anh Kh đã biết việc chị M làm đơn khởi kiện ly hôn nhưng anh Kh cố tình giấu địa chỉ và không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Do đó có căn cứ cho ly hôn giữa chị M và anh Kh theo Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
[3] Về nuôi con chung: Chị M và anh Kh không có con chung cho nên không đặt ra để giải quyết;
[4] Về chia tài sản: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Kh vắng mặt chưa có yêu cầu gì cho nên Hội đồng xét xử chưa giải quyết.
[5] Về án phí: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị M, anh Kh có quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 5; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Tiến Kh
2. Về con chung: Chị M và anh Kh không có con chung
3. Về chia tài sản: Chưa giải quyết.
4. Về án phí: Chị Phạm Thị M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng. Chị M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004669 ngày 25/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (chị M đã nộp đủ).
5. Về quyền kháng cáo: Chị M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 07/6/2021). Anh Kh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn giữa chị M và anh Kh số 41A/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 41A/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về