Bản án về ly hôn, giao nuôi con chung khi ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2022 VỀ LY HÔN, GIAO NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 06 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 48/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, giao nuôi con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Võ Minh T, sinh năm 1988

Địa chỉ: Tổ 6, Ấp T, xã N, huyện T, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Chị Đỗ Thị D, sinh năm 1992

Nơi ĐKHKTT: Tổ 2 (nay là tổ 6), Ấp T, xã N, huyện T, tỉnh An Giang.

Chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

(các đương sự vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện T, tỉnh An Giang vào ngày 15/4/2014. Trước khi kết hôn có tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống làm việc tại Tổ 2 (nay là tổ 6), xã N, huyện T, tỉnh An Giang. Quá trình chung sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, từ năm 2020 đến nay anh chị sống ly thân. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, tháng 01/2022 anh Võ Minh T. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đỗ Thị D.

Tại đơn khởi kiện, bản tự, nguyên đơn anh Võ Minh T. trình bày: Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chị Đỗ Thị D. vay nợ nhiều, anh hỏi không nói, anh nói không nghe nên vợ chồng bất đồng quan điểm, xảy ra mâu thuẫn. Tháng 8/2020 chị D. về nhà ngoại sống tại Thôn Đ, xã T, huyện S, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đỗ Thị D.

Tại bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Đỗ Thị D. trình bày: Nguyên nhân mâu thuẫn do làm ăn thua lỗ chị có vay nợ người ta không trả được nên dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và kinh tế. Tháng 8/2020 chị D. về nhà ngoại sống tại thôn Đ, xã T, huyện S, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay anh T. có đơn xin ly hôn với chị chị cũng nhất trí, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Võ Quốc M, sinh ngày 17/01/2014 và Võ Trúc L, sinh ngày 08/5/2020. Cháu M. hiện đang sống cùng anh T. ở tổ 6, xã N, huyện T, tỉnh An Giang; cháu L. sống cùng chị D. ở Thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Nếu ly hôn anh T. và chị D. cùng có quan điểm đề nghị giao cháu M. cho anh T. và giao cháu L. cho chị D. được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, các bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

Tại bản tự khai, cháu Võ Quốc M. có nguyện vọng được ở với bố là anh Võ Minh T.

- Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. xác định vợ chồng không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của các đương sự khi tham gia tố tụng đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Về nội dung vụ án: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. kết hôn vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện T, tỉnh An Giang là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX xử cho anh Võ Minh T. được ly hôn với chị Đỗ Thị D.; về con chung, giao cháu Võ Quốc M, sinh ngày 17/01/2014 cho anh Võ Minh T, giao cháu Võ Trúc L, sinh ngày 08/5/2020 cho chị Đỗ Thị D. trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình; về tài sản, đất đai, công nợ chung: Các đương sự không có, không đề nghị giải quyết nên không đề cập xử lý. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX giải quyết về án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện anh Võ Minh T. đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đỗ Thị D. và giao nuôi con chung theo quy định; không đề nghị giải quyết về tài sản, công nợ chung. Do vậy quan hệ pháp luật ở đây được xác định là “Ly hôn, giao nuôi con chung khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2]. Về việc tham gia tố tụng của các đương sự:

Căn cứ kết quả xác minh thể hiện bị đơn chị Đỗ Thị D. có hộ khẩu thường trú tại Tổ 2 (nay là tổ 6), xã N, huyện T, tỉnh An Giang, tỉnh Tuyên Quang, đăng ký tạm trú và hiện đang sinh sống làm việc tại Thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Tại phiên tòa, các đương sự đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. kết hôn với nhau trên cơ sở được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh An Giang vào ngày 15/4/2014 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc sau phát sinh mâu thuẫn, từ năm 2020 đến nay vợ chồng sống ly thân. Tháng 10/2022 anh T. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đỗ Thị D, chị D. có quan điểm đồng ý ly hôn với anh Võ Minh T.

Như vậy, cuộc sống hôn nhân của anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. thời gian đầu hạnh phúc, sau phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn đã đến mức làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng hiện sống ly thân. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Võ Minh T. được ly hôn với chị Đỗ Thị D.

- Về con chung: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. có 02 con chung là cháu Võ Quốc M, sinh ngày 17/01/2014 và Võ Trúc L, sinh ngày 08/5/2020. Anh T. và chị D. đều cùng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với các cháu.

Quá trình giải quyết anh T. và chị D. cùng có quan điểm đề nghị Tòa án giao cháu M. cho anh T. và giao cháu L. cho chị D. được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; cháu M. có nguyện vọng được ở với bố là anh Võ Minh T. Xét thấy, hiện tại, cháu M. đang sống cùng anh T. ở tổ 6, xã N, huyện T, tỉnh An Giang; cháu L. sống cùng chị D. ở Thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của các cháu và đảm bảo quyền lợi của các đương sự sau khi ly hôn, cần giao cháu Võ Quốc M, sinh ngày 17/01/2014 cho anh Võ Minh T. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao cháu Võ Trúc L, sinh ngày 08/5/2020 cho chị Đỗ Thị D. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Các đương sự không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Anh Võ Minh T. và chị Đỗ Thị D. không có, không đề nghị giải quyết nên không xem xét.

[4]. Về án phí: Anh Võ Minh T. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định pháp luật.

[5]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 266, 271, 273 - Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Võ Minh T. được ly hôn với chị Đỗ Thị D.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Quốc M, sinh ngày 17/01/2014 cho anh Võ Minh T. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao cháu Võ Trúc L, sinh ngày 08/5/2020 cho chị Đỗ Thị D. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Các đương sự không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Võ Minh T. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001714 ngày 06 tháng 10 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. Anh T. đã nộp đủ án phí của vụ án.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, giao nuôi con chung khi ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;