Bản án về kiện xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 07/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ KIỆN XIN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 16/02/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 163/2021/TLST-HNGĐ ngày 01/10/2021 về việc Kiện xin ly hôn và tranh chấp việc nuôi con chung, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXX-ST ngày 28/12/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 26/01/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th , sinh năm 1993.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, trú quán: Thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H , sinh năm 1986.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, trú quán: Thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

(Chị Th vắng mặt và có đơn xin xét xử xử vắng mặt, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ, chị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn H từ năm 2019 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Do vợ chồng không đồng cảm trong cuộc sống, sinh hoạt. Vợ chồng thường hay sảy ra xung đột, bất hòa. Anh H thường xuyên rượu chè, trai gái. Vợ chồng đã ly thân từ một năm nay, không còn quan hệ tình cảm vợ chồng và không còn quan tâm đến nhau.

Nay chị xét thấy vợ chồng có nhiều mâu thuẫn đến mức quá trầm trọng, không thể đoàn tụ như Tòa án hòa giải động viên. Vì mục đích hôn nhân không đạt được nên chị cương quyết xin ly hôn anh H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Gia H1, sinh ngày 16/8/2020. Cháu H1 hiện đang ở cùng chị. Chị xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung và tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Chị hiện là công nhân, thu nhập bình quân 6.500.000đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh tại Công an xã K, xác định được từ ngay thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, anh H hiện vẫn đang có hộ khẩu thường trú và đang cư trú tại địa phương Thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Tòa án đã gửi các Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh H thông qua người thân của anh H và gửi qua Bưu điện, đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản trên theo thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa:

Chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh H; chị xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu H1 và tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh H vắng mặt tại phiên tòa và không có ý kiến gì.

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa tóm tắt nội dung vụ án và công bố các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành , tỉnh Hải Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý vụ án, Thẩm phán đã thụ lý đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, thời hạn giải quyết, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà Hội đồng xét xử đã tuân theo Pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện không đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Hướng giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình . Chấp nhận yêu cầu của chị Th, xử cho chị Th được ly hôn anh H.

Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.Giao cháu Nguyễn Gia H1, sinh ngày 16/8/2020 cho chị Th được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cháu H1 trưởng thành đủ 18 tuổi; chấp nhận sự tự nguyện của chị Th về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh H vắng mặt và không có ý kiến gì, sau này các đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của Pháp luật. Về án phí: Chị Th phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ của vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà, Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương có đủ cơ sở xác định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị Th có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương, là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Th đối với anh H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa chị Th và anh H là do vợ chồng không đồng cảm trong cuộc sống, sinh hoạt. Vợ chồng thường hay sảy ra xung đột, bất hòa. Vợ chồng đã ly thân từ một năm nay, không còn quan hệ tình cảm vợ chồng và không còn quan tâm đến nhau.Anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến Tòa án để giải quyết việc chị Th xin ly hôn với anh nhưng anh đều vắng mặt, chứng tỏ anh không còn thương yêu, lưu luyến đối với chị Th. Chị Th cương quyết xin ly hôn anh H. Vợ chồng đã sống ly thân từ lâu và không còn quan hệ, không còn tình cảm và không còn quan tâm đến nhau. Qua bà Đồng Thị C là mẹ đẻ anh H và bà Phạm Thị L là mẹ đẻ chị Th cung cấp, vợ chồng Th H có mâu thuẫn,trục trặc từ trước khi chị Th sinh con (Tháng 8/2020), vợ chồng không còn quan hệ, chuyện trò với nhau từ đó đến nay. Gia đình đã động viên khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả. Như vậy, có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn giữa chị Th và anh H đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Th, xử cho chị Th được ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 39 Bộ luật dân sự; Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Th và anh H có có một con chung là Nguyễn Gia H1, sinh ngày 16/8/2020. Cháu H1, hiện đang ở cùng chị Th, chị xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung và tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Chị hiện là công nhân, thu nhập bình quân 6.500.000đồng/tháng. Anh H không có ý kiến gì. Xét chị Th có việc làm và có thu nhập ổn định và hiện đang trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu H1 chưa đủ 36 tháng tuổi, có chỗ ở ổn định tại nhà bố mẹ đẻ. Vì vậy, căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cho chị Th được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu H1 là phù hợp; chị Th không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là hoàn toàn tự nguyện nên cần chấp nhận.

[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh H vắng mặt và không có ý kiến gì. Sau này các đương sự nếu có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án, chị Th có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn anh H nên chị phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào: Điều 39 Bộ luật dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự. Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

2/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn H .

3/ Về quan hệ con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Th được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu Nguyễn Gia H1, sinh ngày 16/8/2020 đến khi cháu H1 trưởng thành đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Th về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

4/ Về án phí: Chị Th phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành theo biên lai số AA/2018/0006470 ngày 27 tháng 9 năm 2021.

5/ Về quyền kháng cáo: Chị Th và anh H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về kiện xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;