TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ KIỆN LY HÔN
Ngày 20 tháng 7 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 119/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc “Kiện ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 15/6/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/QĐST – HNGĐ ngày 01/7/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T; sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn A, xã E K, huyện C M, tỉnh Đăk Lăk
- Bị đơn: Anh Võ Phi C; sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn B, xã E K 1, huyện C M 1, tỉnh Đăk Lăk
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày:
Tôi và anh Võ Phi C có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/12/2014 tại Ủy ban nhân dân xã E K, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk trên cơ sở tự nguyện. Chúng tôi sống chung với nhau được một thời gian ngắn thì tôi phát hiện chồng nghiện Heroin từ lâu, anh C không lo làm ăn, không chăm sóc vợ con nên mâu thuẫn thường xuyên xảy ra. Tôi nhiều lần động viên anh C nhưng không thể cai nghiện được. Chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay nên tình cảm của tôi và anh Võ Phi C không còn. Vì vậy, nay tôi làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar xem xét giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Võ Phi C.
Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Võ Lê Quỳnh Tr, sinh ngày 14/8/2015. Hiện nay tôi đang trực tiếp nuôi dưỡng nên tôi có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu cho đến khi cháu Võ Lê Quỳnh Tr đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Võ Phi C phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã triệu tập anh Võ Phi C để giao thông báo thụ lý vụ án, làm bản tự khai, thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Võ Phi C vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tại chính quyền địa phương vào ngày 06/4/2021 được biết anh Võ Phi C có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng anh Võ Phi C thường xuyên vắng mặt ở nhà vào giờ làm việc hành chính. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng của chị T và anh C là do anh C nghiện ma túy không lo làm ăn, chăm sóc vợ con nên mâu thuẫn thường xuyên xảy ra.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án:
- Đối với Thẩm Phán: đã thực đầy đủ các quy đinh của Bộ luật tố tụng dân sự và thực hiện đúng thời hạn xét xử.
- Đối với Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa: đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.
- Đối với đương sự:
Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T; Tuyên bố chị Lê Thị T được ly hôn với anh Võ Phi C. Giao cháu Võ Lê Quỳnh Tr, sinh ngày 14/8/2015 cho chị Lê Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Tr đủ 18 tuổi. Anh Võ Phi C không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật:
Chị Lê Thị Thương và anh Võ Phi C có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/12/2014 tại Ủy ban nhân dân xã E K, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk. Nay chị Lê Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Võ Phi C nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp ly hôn và nuôi con chung.
Anh Võ Phi C có hộ khẩu thường trú tạm trú tại thôn 14, xã Ea Kiết, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Cư Mgar nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với nguyên đơn chị Lê Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, đối với bị đơn trong quá trình đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng anh Võ Phi C vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là phù hợp.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Võ Phi C có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/12/2014 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kiết, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống giữa chị Lê Thị T và anh Võ Phi C thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, đời sống chung không hạnh phúc và đã sống ly thân với nhau từ năm 2018. Nay chị Lê Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Võ Phi C, xét yêu cầu của chị Lê Thị T là phù hợp vì hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Lê Thị T.
Như vậy có thể thấy, hôn nhân giữa chị Lê Thị T và anh Võ Phi C đã trầm trọng, việc chị Lê Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Võ Phi C là chính đáng cần được chấp nhận.
[3.2] Về con chung: Chị Lê Thị T và anh Võ Phi C có 01 con chung là cháu Võ Lê Quỳnh Tr, sinh ngày 14/8/2015, hiện nay cháu Tr đang được chị Lê Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định và chị Lê Thị T cũng có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu Võ Lê Quỳnh Tr cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy xét nguyện vọng của chị Lê Thị T là chính đáng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay nên giao Võ Lê Quỳnh Tr, sinh ngày 14/8/2015 cho chị Lê Thị T tiếp tục để chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị T không yêu cầu anh Võ Phi C phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.
[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng vào các Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T
Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn với anh Võ Phi C
Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Võ Lê Quỳnh Trang, sinh ngày 14/8/2015 cho chị Lê Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Võ Lê Quỳnh T đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị T không yêu cầu anh Võ Phi C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Anh Võ Phi C được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.
Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí hôn nhân và gia đình:
Chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà chị Lê Thị T đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0019947 ngày 29/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án
Bản án về kiện ly hôn số 22/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 22/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về