TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 18/2024/DS-ST NGÀY 26/07/2024 VỀ KIỆN ĐÒI NỢ
Ngày 26 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 50/2024/TLST-DS, ngày 21/6/2024, về việc yêu cầu kiện đòi nợ. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2024/QĐXX-ST, ngày 10/6/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà; Hà Thị C, sinh năm 1967. Địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà; Nguyễn Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
3. Người làm chứng:
3.1. Bà; Nguyễn Thị B, sinh năm 1976. Địa chỉ: Xóm Y, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
3.2. Chị; Đinh Thị H1, sinh năm 1984. Địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
3.3. Bà; Văn Thị H2, sinh năm 1963. Địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, Bản tự khai và lời trình bày tại phiên toà của nguyên đơn bà Hà Thị C trình bày như sau: Bà với bà Nguyễn Thị H không có mối quan hệ họ hàng gì cả, chỉ là hàng xóm láng giềng với nhau. Trong thời gian qua bà H đã 04 lần vay tiền của bà, cụ thể như sau:
1. Ngày 12/02/2022 âm lịch, bà có cho bà H vay số tiền 55.000.000 đồng, hẹn đến tháng 7/2022 âm lịch sẽ trả, khi vay không nói chi tiền lãi suất cả, vì tình cảm láng giềng giúp đỡ nhau, bà H hay cho quà cáp, như thịt bò, hoa quả, nên bà cho vay không tính lãi suất; khi vay tiền bà H có viết giấy vay nợ vào Sổ của bà. Khi đến vay bà H nói cho bà H vay về trả tiền mua ô tô cho con trai làm ăn.
2. Ngày 26/7/2022 ( âm lịch), bà lại cho bà Nguyễn Thị H vay 25.000.000 đồng ( Hai mươi lăm triệu đồng). Khi đến vay bà H nói cho vay về để trả khoản nợ mới tỷ, cho nên khi vay tiền bà H đã viết vào Sổ của bà và hẹn đến tháng 12/2022 sẽ trả; khi vay cũng vì tình cảm nên cho vay, không tính lãi suất chỉ cả.
3. Ngày 13/10/2022 ( âm lịch), bà Nguyễn Thị H lại tiếp tục đến gặp bà xin vay số tiền là 30.000.000 đồng ( Ba mươi triệu đồng). Bà H nói là xin vay để trả cho O N T đến đòi tiền nợ phường, lãi suất cao mấy bà H cũng chấp nhận, thương bà H nên bà mới đi vay người khác về đưa cho bà H; bà H nói vay ít ngày sẽ trả tiền gốc và lãi suất cao mấy cũng trả; nhưng sau đó bà H cũng không trả gốc và lãi suất gì cả. Khi vay tiền bà H có viết vào Sổ của bà là vay 30.000.000 đồng.
4. Tiếp đến ngày 25/3/2023 ( dương lịch), bà H lại đến xin vay bà số tiền 60.000.000 đồng ( Sáu mươi triệu đồng) về để bà H trả tiền cho con trai gây tai nạn giao thông trước đó, phải đền bù cho họ; nên bà mới đồng ý cho vay tiếp số tiền này, vay cũng không thoả thuận tiền lãi; khi đến bà H hẹn vay ngắn ngày bốc phường sẽ trả lại, đồng thời đến tháng 6 âm lịch trả đầy đủ cho bà tất cả các khoảng vay trước đó luôn.
Nhưng thực tế sau đó bà H cũng không trả nợ cho bà 04 khoản như đã vay trước đó. Đến ngày 21/11/2023 hai bên mới ngồi lại chốt với nhau, đó là bà H đã vay của bà, thì bà H sẽ trả nợ hộ cho tôi một số khoản nợ như là trả cho chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1976, trú tại xóm Y, xã T, với số tiền 57.000.000 đồng; còn lại bà H chỉ nợ tôi 03 khoản với tổng số tiền là 135.000.000 đồng và bà H hẹn sẽ trả 03 lần cho bà, mỗi lần khoảng 40.000.000 đồng, lần 1 trả vào ngày 10/12/2023 âm lịch; đến 10/3/2024 âm lịch sẽ trả tiếp 40.000.000 đồng; còn lại 55.000.000 đồng sẽ trả vào tháng 4/2024 âm lịch sẽ trả hết.
Khi chốt nợ bà cũng thừa nhận là bà đến hỏi nợ bà H, thì gặp con gái bà H tên là H3, nên bà nói với H3 cho gì vay 5.000.000 đồng, nên H3 có đưa cho bà 5.000.000 đồng; lúc trước đó bà có đi phường nơi bà Lan P, nên bà có trách nhiệm đóng 02 suất cho bà Lan P, do khi đó bà Lan P trả tiền phường cho bà H, nên bà mới nói bà H đang nợ tiền bà C, nên bà không đóng 02 suất là 6.000.000 đồng; cho nên thành ra bà nợ bà H 6.000.000 đồng. Như vậy thành ra bà nợ bà H 02 khoản này là 11.000.000 đồng; nên bà đã viết vào giấy là nợ bà H 11.000.000 đồng, được trừ trong số tiền 135.000.000 đồng bà H còn nợ bà, nên còn lại bà H còn nợ bà là 124.000.000 đồng.
Khi chốt nợ này lại thì hai bên có ghi vào tờ giấy, bà C viết trước, sau đó bà H viết ngày 21/11/2023 dương lịch; sau đó bà lại viết tiếp vào phần là nợ bà H 11.000.000 đồng là vậy.
Nhưng do sau đó bà H không thực hiện như đã cam kết, theo văn bản ngày 21/11/2023 dương lịch, như là trả nợ thay chị B cho bà C. Cho nên bà đã nhiều lần đến hỏi nợ bà H, nhưng bà H vẫn không trả nợ. Cho nên bà mới làm đơn khởi kiện bà H.
Bà có đi phường tại con gái bà H là chị Đinh Thị H1 02 suất phường, vào ngày 25/01/2022 và một phường cưới vào ngày 10/5/2022, do chị H1 làm chủ, bà là con phường, cho nên bà đã đóng đầy đủ cho chị H1; bà cũng không thoả thuận với chị H1 hay bà H là bà H sẽ đóng phường hàng tháng thay cho bà; việc bà đi phường tại con gái bà H là chị H1, không liên quan gì đến bà H cả; việc này là giữa bà với chị Đinh Thị H1.
Đồng thời trong thời gian vừa qua bà có lấy một số hàng hóa tại bà H trị giá khoảng 500.000 đồng như dầu ăn, mì chính, lúa; bà cũng nói trả cho bà H, nhưng bà H nói không lấy, vì từng đó không ăn thua.
Số tiền bà đã cho bà H vay là tiền riêng của cá nhân bà cho bà H vay; đồng thời bà H vay cũng là một mình bà H vay của bà, chồng con bà H không biết việc vay mượn, vì bà H nói là mình bà H vay, đừng nói với chồng con của bà H. Cho nên bà yêu cầu cá nhân bà Nguyễn Thị H trả cho bản thân bà.
Tổng số tiền bà H đã vay của bà 04 khoản là 170.000.000 đồng.
Nay bà khởi kiện đề nghị bà H trả cho bà số tiền gốc là: 170.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng); trong đó bà H đã 02 lần trả được cho bà C là 11.000.000 đồng, như vậy bà H còn nợ bà C 159.000.000 đồng. Còn tiền lãi suất bà C yêu cầu bà H trả tiền lãi cho bà đối với khoản vay ngày 12/02/2022 âm lịch và khoản vay ngày 25/3/2023 dương lịch, theo mức lãi suất của Ngân hàng, tính đến ngày 24/5/2024 là 2.325.000 đồng; vì 02 khoản vay này là bà đi vay của người khác cho bà H, nên bà yêu cầu bà H phải trả tiền lãi đối với 02 khoản vay này.
Tổng cộng bà yêu cầu bà Nguyễn Thị H trả cả gốc và lãi là: 161.325.000 đồng (Một trăm sáu mươi mốt triệu, ba trăm, hai mươi lăm nghìn đồng).
Ngoài ý kiến đã trình bày nêu trên, bà không có thêm bất cứ ý kiến hay yêu cầu gì thêm cả.
Bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày như sau:
Bà với bà Hà Thị C không có mối quan hệ họ hàng gì cả, chỉ là hàng xóm láng giềng với nhau.
Ngày 12/02/2022 bà có vay bà C số tiền 30.000.000 đồng; Ngày 26/7/2022 bà có vay bà C số tiền 25.000.000 đồng; ngày 13/10/2022 bà có vay của bà C số tiền 30.000.000 đồng. Tổng số tiền bà có vay của bà C là: 85.000.000 đồng (Tám mươi lăm triệu đồng); số tiền này bà vay có viết giấy vay nợ. Số tiền này, bà vay về để cho con trai trả tiền bồi thường do con gây tai nạn giao thông.
Còn ngày 25/3/2023 bà có đến xin vay bà C số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) và viết giấy vay; bà C nói là bà C có suất phường tại bà L có số tiền 60.000.000 đồng, bảo chiều đến lấy, chiều bà đến lấy chỉ có 15.000.000 đồng, rồi bà C hẹn 01 tuần sẽ đưa đủ, nhưng sau 01 tuần bà C cũng không đưa 45.000.000 đồng nữa, bà có bảo là xé giấy viết trước đó, thì bà C bảo xé rồi, nhưng thực tế cũng không xé giấy bà đã viết vay của bà C. Cho nên thực chất bà chỉ vay bà C ngày 25/3/2023 là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng ).
Như vậy tổng số tiền bà thực vay tại bà Hà Thị C là: 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
Ngoài ra bà Hà Thị C có đi phường tại con gái bà là Đinh Thị H1, sinh năm 1984, ở cùng xóm N, xã T, huyện T làm chủ phường, phường này từ ngày 10/5/2022 đến ngày 10/5/2024, tổng có 25 suất, bà C đã bốc phường tổng số tiền là 78.000.000 đồng.
Do bà đang còn nợ bà C số tiền 100.000.000 đồng; cho nên bà đã nói với con gái là bà sẽ trả thay hàng tháng cho bà C đi phường tại con gái, với tổng số tiền là 78.000.000 đồng.
Ngoài ra bà C còn đi tại con gái Đinh Thị H1, 01 suất phường khác nữa, đó là phường từ ngày 25/01/2022 tổng có 21 suất, bà C đã bốc tại con gái là Đinh Thị H1: bà cũng đã trả hàng tháng tiền phường thay cho bà C, với tổng số tiền là 50.720.000 đồng.
Việc bà trả tiền phường của bà C đi tại con gái là có sự đồng ý của bà C và con gái là Đinh Thị H1.
Ngoài ra trong quá trình như vậy, bà đã trả được cho bà H tổng số tiền là 19.560.000 đồng, cụ thể: 01 lần trả 6.000.000 đồng vào ngày 10/4/2022 âm lịch; 01 lần trả 5.000.000 đồng vào ngày 20/10/2023 dương lịch; 01 lần trả 2.500.000 đồng, số tiền này trả cắt vào số tiền vay ngày 13/10/2022; bà C còn nợ tiền mua đồ ở quán của bà là 3.060.000 đồng.
Như vậy tổng số tiền bà đã trả và bà C nợ tiền mua đồ của bà là 148.340.000 đồng (Một trăm, bốn mươi tám triệu, ba trăm bốn mươi nghìn đồng); trong khi đó bà chỉ vay của bà C là: 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng); nên bà Hà Thị C còn nợ bà là 48.340.000 đồng.
Việc bà vay bà C 15.000.000 đồng vào ngày 25/3/2023 với số tiền 15.000.000 đồng, chứ không phải là 60.000.000 đồng như bà C nói là có chị Nguyễn Thị B làm chứng.
Ngoài ý kiến đã trình bày nêu trên, bà không có thêm bất cứ ý kiến hay yêu cầu gì thêm cả.
3. Người làm chứng có ý kiến như sau:
3.1. Bà Nguyễn Thị B trình bày: Bà với bà Hà Thị C hay bà Nguyễn Thị H không có mối quan hệ họ hàng gì cả, chỉ là bạn bè quen biết nhau; bà cũng không có gì mâu thuẫn với 02 người này cả.
Việc hai bên giữa bà C hay bà H vay nợ ngày 25/3/2023 như thế nào bà hoàn toàn không biết.
Có lần bà H điện thoại hỏi bà là mi bán nhà phải không, mi bán nhà cho bà C vay 60.000.000 đồng phải không; bà trả lời tiền mô mà cho vay. Sau đó bà điện thoại cho bà C để hỏi, nhưng không được; sau đó bà đến nhà bà C chơi, thì bà C có dặn là khi mô bà H có hỏi, thì cứ trả lời là bà có cho bà C vay, bà C dặn bà như thế. Thực tế bà không cho bà C vay, cũng như bà cũng không cho bà H vay đồng nào cả.
Ngoài ý kiến đã trình bày nêu trên, bà không có thêm bất cứ ý kiến hay có yêu cầu gì thêm cả. Bà cam đoan lời khai của mình trước pháp luật.
3.2. Chị Đinh Thị H1 trình bày: Chị với bà Hà Thị C không có mối quan hệ họ hàng gì cả, chỉ là hàng xóm láng giềng với nhau. Chị với bà Nguyễn Thị H, là mẹ đẻ với con đẻ; chị là con đầu của bà Nguyễn Thị H. Chị làm chủ phường, bà Hà Thị C có đi phường do chị làm chủ đã nhiều đợt, đợt này là đợt thứ 3, khoảng năm thứ 5 hay 6 gì đó. Bà C đã đi 02 suất phường tại chị và đã hết nghĩa vụ đóng nộp; còn lại 01 suất phường đang tiếp tục đến tháng 4/2025 là hết. Hai suất phường bà C đi tại chị làm chủ phường và bà C đã bất rồi, bắt đầu đi phường từ tháng 01/2022 (phường ngày 25 ), mỗi tháng đóng 3.000.000 đồng, tháng 7/2022 bà C đã bốc; đến tháng 9/2023 là hết. 01 suất phường vào ngày 30, bắt đầu từ tháng 09/2022, mỗi tháng đóng 2.000.000 đồng, phường có 17 suất ( tháng 12/2023 là hết ) đến tháng 02/2023 là bà C đã bốc phường. Chị với bà Hà Thị C cùng với mẹ là bà Nguyễn Thị H không có thoả thuận là bà Nguyễn Thị H sẽ đóng trả tiền phường thay nghĩa vụ nộp phường thay cho bà C. Nhưng sau khi bà C bốc phường, cứ đến ngày nộp phường thì chị gọi cho bà C đốc thúc nộp tiền phường, bà C nói là mẹ ( bà H ) đang vay nợ gì, cho nên mẹ phải nộp thay cho gì, con hỏi mẹ đi, sau đó chị hỏi bà H, thì bà H cứ nộp thay hàng tháng cho bà C. Phường ngày 25 thì bà H nộp thay cho bà C 16 suất ( suất 3.000.000 đồng ); còn phường ngày 30 thì bà H không nộp đồng nào cho bà C cả, đến ngày thì bà C cứ nộp đầy đủ. Hiện tại bà C đang còn nghĩa vụ đi 01 suất phường tại chị vào ngày 10 hàng tháng, bắt đầu từ 5/2022 đến tháng 5/2025 mới hết; tháng 12/2022 bà C bốc. Suất phường này hàng tháng bà H đã nộp thay cho bà C; bà H đã nộp thay cho bà C được 25 suất ( mỗi suất 3.000.000 đồng ); còn 02 tháng nay bà C không tiếp tục đóng phường cho chị, hay bà H cũng không đóng tiếp phường thay cho bà C.
Ngoài ý kiến đã trình bày nêu trên, chị không có thêm bất cứ ý kiến hay có yêu cầu gì thêm cả.
3.3. Ý kiến của bà Văn Thị H2: Bà H2 đã được Toà án triệu tập hợp lệ theo yêu cầu của bị đơn, nhưng vẫn vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tố tụng. Còn về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà Nguyễn Thị H trả nợ cho bà Hà Thị C, 04 lần vay với tổng số tiền: 170.000.000 đồng; trừ đi số tiền bà H đã trả 11.000.0000 đồng; nên bà H còn phải trả cho bà C 159.000.000 đồng và tiền lãi suất của khoản vay ngày 12/02/2022 âm lịch và khoản vay ngày 25/3/2023 dương lịch, với số tiền lãi là: 2.325.000 đồng; tổng cộng bà Nguyễn Thị H phải trả cho bà Hà Thị C là: 161.325.000 đồng. Miễn tiền án phí cho bà H, vì là người cao tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung vụ án:
Bà Nguyễn Thị H với bà Hà Thị C không có mối quan hệ anh em, họ hàng gì với nhau; trong thời gian vừa qua hai bên có cho vay mượn nhau như sau:
Ngày 26/7/2022 bà Nguyễn Thị H có vay bà Hà Thị C số tiền 25.000.000 đồng và có viết giấy.
Ngày 13/10/2022 bà Nguyễn Thị H có vay của bà Hà Thị C số tiền 30.000.000 đồng và có viết giấy vay.
Ngày 12/02/2022 bà Nguyễn Thị H có đến vay tiền của bà Hà Thị C và có viết giấy vay; bà H thì nói chỉ vay bà C số tiền 30.000.000 đồng; bà C thì nói bà H vay 55.000.000 đồng.
Ngày 25/3/2023 bà Nguyễn Thị H có đến xin vay tiền của bà Hà Thị C và có viết giấy vay; bà H thì nói chỉ vay bà C số tiền 15.000.000 đồng; bà C thì nói bà H vay 60.000.000 đồng.
Đến ngày 21/11/2023 hai bên ngồi lại chốt với nhau và lập 01 văn bản, với nội dung đó là bà H đã vay của bà C, thì bà H sẽ trả nợ hộ cho bà C một số khoản nợ như là trả cho chị Nguyễn Thị B, với số tiền 57.000.000 đồng; còn lại bà H chỉ nợ bà C 03 khoản với tổng số tiền là 135.000.000 đồng và bà H hẹn sẽ trả 03 lần cho bà C, mỗi lần khoảng 40.000.000 đồng, lần 1 trả vào ngày 10/12/2023 âm lịch; đến 10/3/2024 âm lịch sẽ trả tiếp 40.000.000 đồng; còn lại 55.000.000 đồng sẽ trả vào tháng 4/2024 âm lịch sẽ trả hết. Khi chốt nợ này lại thì hai bên có ghi vào tờ giấy, bà C viết trước, sau đó bà H viết ngày 21/11/2023 dương lịch; sau đó bà C viết tiếp vào phần là nợ bà H 11.000.000 đồng.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu cá nhân bà Nguyễn Thị H trả nợ cho bà Hà Thị C với 04 lần vay tiền, với tổng số nợ 170.000.000 đồng là có căn cứ để chấp nhận, vì:
Bản thân bà Nguyễn Thị H cũng thừa nhận ngày 26/7/2022 bà Nguyễn Thị H có vay bà Hà Thị C số tiền 25.000.000 đồng và có viết giấy. Ngày 13/10/2022 bà Nguyễn Thị H có vay của bà Hà Thị C số tiền 30.000.000 đồng và có viết giấy vay; với 02 lần vay này là: 55.000.000 đồng.
Đối với khoản vay ngày 12/02/2022 với số tiền 55.000.000 đồng, bà C nói bà H vay 55.000.000 đồng là có căn cứ, khoản vay này là khoản vay đầu tiên, trong số các lần vay tiếp sau đó, bà H cũng thừa nhận chữ viết trong giấy vay là do chính bà viết, số tiền vay trong giấy cũng là 55.000.000 đồng, chứ không phải là 30.000.000 đồng.
Đối với khoản vay ngày 25/3/2023 ( dương lịch), với số tiền 60.000.000 đồng; việc bà C nói bà H vay với số tiền này là có căn cứ, giấy vay tiền bà H thừa nhận do bà viết, bà cũng thừa nhận là đã nhận số tiền 15.000.000 đồng trong tổng số tiền 60.000.000 đồng xin vay.
Ngoài các giấy vay do chính bà Nguyễn Thị H viết và thừa nhận, ngày 21/11/2023 hai bên có chốt với nhau 01 văn bản, do chính bà H và bà C cùng viết, trong đó bà C thừa nhận là có nợ bà H số tiền 135.000.000 đồng, sau khi bà H thực hiện thay nghĩa vụ trả nợ cho bà C đối với một số người khác. Lời khai của bà C phù hợp với văn bản ngày 21/11/2023.
Đối với yêu cầu tiền lãi suất của khoản vay ngày 12/02/2022 âm lịch và khoản vay ngày 25/3/2023 dương lịch là có căn cứ, trong giấy vay có thoả thuận về lãi suất, cho nên nguyên đơn yêu cầu tiền lãi 2.325.000 đồng là có căn cứ chấp nhận, phù với với mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.
[3] Xét ý kiến của bị đơn là bà Nguyễn Thị H:
Việc bị đơn không thừa nhận ngày 12/02/2022 âm lịch, có vay bà C với số tiền 55.000.000 đồng, mà chỉ vay 30.000.000 đồng là không có căn cứ để chấp nhận, ngoài lời khai nại ra bà H không có chứng cứ nào để chứng minh là chỉ vay bà C 30.000.000 đồng.
Việc bị đơn không thừa nhận ngày 25/3/2023 ( dương lịch), vay của bà C với số tiền 60.000.000 đồng ( Sáu mươi triệu đồng), mà chỉ vay có 15.000.000 đồng là không có căn cứ để chấp nhận; ngoài lời khai nại ra, bà H không có chứng cứ nào để chứng minh là chỉ vay bà C 15.000.000 đồng; bà H có đề nghị Toà án đưa bà B tham gia tố tụng, vì bà B biết rõ. Song lời khai của bà B không thừa nhận là biết việc vay nợ như thế nào, chỉ có lần bà H hỏi bà B là bà B có cho bà C vay tiền hay không mà thôi; đồng thời khi gặp bà C, thì bà C có dặn bà B là bà H có hỏi thì cứ nói là bà C có vay tiền của bà B.
Việc bị đơn khai nại là đã trả nợ thay cho bà H Thị C tiền phường, mà bà C có nghĩa vụ trả tại chị Đinh Thị H1 với số tiền 128.720.000 đồng cho 02 suất phường, là không có căn cứ để chấp nhận. Việc bà C đi phường tại chị H1 là mối quan hệ khác, 03 bên không có thoả thuận với nhau là bà H sẽ trả thay nghĩa vụ cho bà C đối với chị H1; chính chị H1 là con gái của bà H cũng thừa nhận, là giữa chị với bà C, cũng như bà H không có thoả thuận là bà H trả thay cho bà C; còn việc chị H1 hỏi là hàng tháng chị có gọi điện đốc thúc bà C trả tiền phường, thì bà C nói là bà H sẽ trả thay và bà H đã trả thay cho bà C là không có căn cứ chấp nhận ý kiến này; vì chị H1 với bà H là mẹ con, cho nên ý kiến này không khách quan, vì chính bản thân chị H cũng thừa nhận là 03 bên không có thoả thuận là bà H trả tiền phường, của 02 suất phường thay cho bà C. Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ cho người thứ 3, phải được các bên thừa nhận thoả thuận thống nhất mới có giá trị pháp lý.
[4] Xét ý kiến của người làm chứng:
4.1. Đối với ý kiến chị Nguyễn Thị B là khách quan; lời khai của B là không biết vay vợ nợ giữa bà C với bà H ngày 25/3/2023 như thế nào cả; ngoài ra chị B cũng không biết việc vay nợ giữa hai người như thế nào.
4.2. Đối với ý kiến của chị Đinh Thị H1 là không khách quan, không có căn cứ để chấp nhận; bản thân chị H1 cũng thừa nhận là giữa chị với bà C và mẹ mình là bà H không hề có thoả thuận nào về việc bà Nguyễn Thị H sẽ trả tiền phường thay cho bà H Thị C; việc bà H Thị C đi phường tại chị Đinh Thị H1 là mối quan hệ khác giữa hai người.
[5] Xét ý kiến của Kiểm sát viên: Các ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đã được làm rõ tại phiên tòa.
[6] Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn là bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm trả lại cho bà H Thị C, số tiền đã vay ngày 12/02/2022 âm lịch, ngày 26/7/2022 âm lịch, ngày 13/10/2022 âm lịch và ngày 25/3/2023 dương lịch với tổng số tiền là: 170.000.000 đồng; nhưng trừ đi số tiền 11.000.000 đồng bà H đã trả và tiền lãi của 02 khoản vay ngày 12/02/2022 âm lịch và khoản vay ngày 25/3/2023 dương lịch với số tiền 2.325.000 đồng là hoàn toàn phù hợp với các Điều 116; 117; 118; 163; 164; 166; 274; 275; 357; 401; 463; 466; 468 Bộ luật dân sự.
[9] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Cho nên bị đơn phải chịu án phí, nhưng bị đơn là người cao tuổi, nên miễn tiền án phí cho bị đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; 35; 147; 244 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 116; 117; 118; 163; 164; 166; 274; 275; 357; 401; 463; 466; 468 Bộ luật dân sự. Điều 12; 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Hà Thị C.
2. Buộc bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm trả nợ cho bà Hà Thị C, đối với khoản vay ngày 12/02/2022 âm lịch, ngày 26/7/2022 âm lịch, ngày 13/10/2022 âm lịch và ngày 25/3/2023 dương lịch với tổng số tiền là: 159.000.000 đồng (Một trăm năm mươi chín triệu đồng) và tiền lãi của 02 khoản vay ngày 12/02/2022 âm lịch và khoản vay ngày 25/3/2023 dương lịch với số tiền 2.325.000 đồng (Hai triệu, ba trăm hai lăm nghìn đồng ); tổng cộng số tiền bà Nguyễn Thị H phải trả cho bà Hà Thị C, là: 161.325.000 đồng (Một trăm sáu mươi mốt triệu, ba trăm hai lăm nghìn đồng).
3. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong số tiền còn phải thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về án phí:
4.1. Trả lại cho bà Hà Thị C số tiền: 4.308.000 đồng ( Bốn triệu, ba trăm linh tám nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí, theo Biên lai thu tiền số 0011835 ngày 21/6/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
4.2. Miễn tiền án phí dân sự cho bà Nguyễn Thị H.
5. Nguyên đơn; bị đơn, có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về kiện đòi nợ số 18/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 18/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 26/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về