TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 03/2024/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2024 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG
Ngày 25 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 348/2023/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2023 về việc “Không công nhận là vợ chồng”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXX- ST ngày 05 tháng 01 năm 2024 giữa:
Nguyên đơn: Bà Phùng Thị V, sinh năm 1969 (có mặt).
Địa chỉ: Th, xã LM, huyện N, tỉnh B.
Bị đơn: Ông Đỗ Văn X, sinh năm 1955 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: TDP PL 4, TT PS, huyện N, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 03/10/2023 và trong các lời khai bà Phùng Thị V là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Đỗ Văn X tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn với nhau vào khoảng tháng 10 năm 1988, tại Ủy ban nhân dân xã S (nay là thị trấn S), huyện N, tỉnh B. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc hay đe dọa. Qúa trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ năm 1989 vợ bà sinh con đầu tiên, đến năm 1991 bà sinh con thứ hai, kể từ đó thường X cãi vã, cuộc sống không hạnh phúc. Do khi còn ở với nhau cãi vã và ông X thường X đánh đập bà nên bà phải bỏ đi làm thuê. Đến năm 1996, bà được một người quen biết xã hội rủ đi làm thuê rửa bát ở Hà Nội và bà đã đồng ý đi, tuy nhiên qua một đêm ngủ dậy thì bà phát hiện và bị lừa sang Trung Quốc, đi làm thuê. Bà ở Trung Quốc làm từ đó đến nay mới về, trong thời gian ở Trung Quốc bà bị lừa vào rừng sâu ở địa chỉ nào thì bà không biết, làm nên không biết đường về nhà và không thể trốn về nhà được. Đến tháng 03 năm 2023 bà mới trốn được về nhà. Bà không có hợp đồng lao động gì ở Trung Quốc mà bị bắt cóc đi. Nay Bà đã về nước hẳn. Hiện nay bà đã mất giấy chứng nhận kết hôn, bà có lên UBND thị trấn S để xin cấp trích lục kết hôn nhưng UBND thị trấn S cũng không còn lưu trữ hồ sơ sổ sách kết hôn.
Nay bà xác định không còn tình cảm gì với ông Đỗ Văn X nữa, nên bà đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận vợ chồng giữa bà và ông X.
Về con chung: Bà có 02 con chung là Đỗ Qúy Trọng, sinh ngày 28/6/1989 và Đỗ Tuấn Nghĩa, sinh năm 1991 cả hai con chung của bà đều đã trưởng thành lập gia đình riêng.
Về tài sản chung, công nợ chung: Bà không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là ông Đỗ Văn X trình bày: Ông và vợ ông là Phùng Thị V tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn với nhau vào khoảng tháng 10 năm 1988, tại Ủy ban nhân dân xã S (nay thị trấn S), huyện N, tỉnh B. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc hay đe dọa. Tuy nhiên, hiện nay ông đã mất giấy chứng nhận kết hôn, ông có lên UBND thị trấn S để xin cấp trích lục kết hôn nhưng hiện nay UBND thị trấn S cũng không còn lưu trữ hồ sơ kết hôn của ông do thời gian đã quá lâu.
Qúa trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Sau một thời gian chung sống ông nhận thấy vợ ông là người lười làm, không chăm lo làm ăn chăm sóc gia đình. Khoảng đầu năm 1996, vợ ông bỏ đi biệt biệt tích không về nhà, ông cũng không biết vợ ông bỏ đi đâu, ông cũng không đi tìm. Hiện nay ông xác định đã không còn tình cảm với bà Phùng Thị V nữa. Ông bà đã ly thân từ năm 1996 đến nay, đã chấm dứt mọi quan hệ về tình cảm và kinh tế. Nay bà Phùng Thị V làm đơn yêu cầu giải quyết không công nhận vợ chồng, quan điểm của ông là đồng ý.
Về con chung: Ông có 02 con chung là Đỗ Qúy Trọng, sinh ngày 28/6/1989 và Đỗ Tuấn Nghĩa, sinh năm 1991. Cả hai con chung đã trưởng thành đều đã lập gia đình riêng. Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.
Về tài sản chung, công nợ chung: Ông không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:
Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, bà V chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, ông X có đơn xin xét xử vắng mặt. Qua biên bản xác minh với UBNDTT S thì xác định bà V ông X không Đăng ký kết hôn bà V ông X không cung cấp được giấy đăng ký kết hôn. Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 14, 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273, điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Phùng Thị V và ông Đỗ Văn X là vợ chồng.
Về con chung: Các con đã trưởng thành.
Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và công nợ chung nên không xem xét giải quyết.
Ngoài ra còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận thấy:
1. Về tố tụng: Đơn khởi kiện của bà Phùng Thị V và các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức nội dung đơn khởi kiện. Ông X là bị đơn có hộ khẩu thường trú tại, TT S, huyện N, tỉnh B. Do đó Tòa án nhân dân huyện N thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Ông Đỗ Minh X có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 BLTTDS, HĐXX đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn.
2. Về nội dung: Bà V và ông X về chung sống với nhau năm 1988 ông bà có đến UBND xã đăng ký kết hôn nhưng do thời gian lâu cho nên không còn giữ được ĐKKH. Tại biên bản xác minh Tòa án đã xác minh với UBND TT S thì không có thông bà V và ông X có đăng ký kết hôn trong sổ sách lưu trữ. Các đương sự không cung cấp được giấy ĐKKH. Căn cứ vào các lời khai của các đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án HĐXX xử không công nhận bà V và ông X là vợ chồng.
Vì vậy xác mâu thuẫn giữa đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài bà V và ông X đã sống ly thân từ năm 1996 không còn quan hệ tình cảm và kinh tế, nên chấp nhận yêu không công nhận vợ chồng của bà V theo quy định tại Điều 14,53 Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về con chung: Vợ ông X bà V có 2 con chung các con đã trưởng thành nên HĐXX không xem xét giải quyết.
4. Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu giải quyết về tài sản chung công nợ nên không xem xét giải quyết.
5. Về án phí: Bà V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 14, 53, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:
1.Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Phùng Thị V và ông Đỗ Văn X là vợ chồng.
2.Về án phí: Bà Phùng Thị V phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện N ngày 03/10/2023 theo biên lai thu số 0000710.
3. Về quyền kháng cáo: Báo cho đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 03/2024/HNGĐ-ST về không công nhận vợ chồng
Số hiệu: | 03/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về