TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 40/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022 về việc không công nhận vợ chồng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Dương Ngọc N, sinh năm 1988.
Địa chỉ nơi cư trú: Khóm 4, TT. TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
- Bị đơn: Anh Phan Văn N, sinh năm 1989.
Địa chỉ nơi cư trú: Ấp B, xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời trình bày đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:
Về hôn nhân: Chị Nhiến trình bày, chị và anh Nghĩa sống chung với nhau như vợ chồng vào năm 2018, nhưng không đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, không thể hàn gắn được, hiện đã sống ly thân nhau. Chị Nhiến xác định vợ chồng không còn hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn.
Ý kiến của anh Nghĩa: Anh Nghĩa thừa nhận sống với nhau như vợ chồng và mâu thuẫn đúng như chị Nhiến trình bày. Trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, đã sống ly thân nên đồng ý ly hôn.
Về con chung: Chị N và anh N xác định có 01 con chung tên Dương Ngọc K, sinh ngày 17/5/2020 sau khi sinh do chị Nhiến trực tiếp nuôi. Vào ngày 02/02/2022 anh Nghĩa đến xin đưa con về nhà bên nội thì chị đồng ý cho anh Nghĩa chở con đi về nhà bên nội chơi, nhưng đến nay không giao cháu lại cho chị, chị đã báo chính quyền địa phương lập biên bản nhưng hiện cháu Kim đang do anh Nghĩa nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu anh Nghĩa giao cháu Kim cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, vì con còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Vấn đề cấp dưỡng chị Nhiến không đặt ra yêu cầu và anh Nghĩa cấp dưỡng.
Ý kiến của anh Nghĩa: Anh thừa nhận vào ngày 02/02/2022 anh có đến nhà của chị Nhiến, xin đưa cháu Kim về nhà bên nội thì chị đồng ý cho anh đưa con đi về nhà bên nội cho đến nay. Vì làm cha nên muốn chăm sóc, nuôi dưỡng con, không phải cố tình, nhưng sau khi khi nghe Hội đồng xét xử phân tích theo quy định pháp luật về điều kiện nuôi dưỡng con sau ly hôn thì anh đồng ý giao cháu Kim cho chị Nhiến nuôi dưỡng (vì con dưới 36 tháng tuổi), khi nào con lớn và có điều kiện thì anh sẽ yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng. Nhưng vẫn có quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được cản trở.
Về tài sản chung: Chị N và anh N xác định không có. Về nợ chung: Chị Nhiến và anh Nghĩa xác định không có.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên toà các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét đơn yêu cầu của chị Dương Ngọc N về việc xin ly hôn với anh Phan Văn N thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 14, 53 của Luật hôn nhân và gia đình; Anh Nghĩa là bị đơn có nơi cư trú tại Ấp 7, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện Thới Bình theo quy định tại Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án:
[2] Về hôn nhân: Chị Nhiến trình bày, chị và anh Nghĩa sống chung với nhau như vợ chồng vào năm 2018, nhưng không đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống vợ chồng cả hai đều xác định có phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, không thể hàn gắn được, hiện đã sống ly thân nhau. Chị Nhiến và anh Nghĩa đều xác định vợ chồng không còn hạnh phúc nên cả hai thống nhất chấm dứt hôn nhân với nhau.
Theo quy định tại Điều 14, 53 của Luật hôn nhân và gia đình trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, khi có yêu cầu ly hôn, chấm dứt hôn nhân thì Tòa án thụ lý, giải quyết tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Như vậy, trường hợp của chị Nhiến và anh Nghĩa sống chung nhưng không đăng ký kết hôn, đã có yêu cầu ly hôn và Tòa án đã thụ lý giải quyết. Do đó, cần tuyên bố về việc không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Dương Ngọc Nhiến và anh Phan Văn Nghĩa.
[3] Về con chung: Chị Nhiến và anh Nghĩa xác định có 01 con chung tên Dương Ngọc Kim, sinh ngày 17/5/2020 sau khi sinh do chị Nhiến trực tiếp nuôi. Vào ngày 02/02/2022 anh Nghĩa đến xin đưa con về nhà anh chơi thì chị đồng ý cho anh Nghĩa chở con đi về nhà bên nội chơi cho đến nay. Sau khi ly hôn anh, chị thống nhất giao cháu Kim cho chị Nhiến trực tiếp nuôi dưỡng, vì con còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Xét thấy, việc thỏa thuận người trực tiếp nuôi con sau ly hôn của chị Nhiến và anh Nghĩa phù hợp với quy định của pháp luật nên được ghi nhận.
Vấn đề cấp dưỡng chị Nhiến không đặt ra yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung: Chị Nhiến và anh Nghĩa xác định không có.
[5] Về nợ chung: Chị Nhiến và anh Nghĩa xác định không có.
[6] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị Nhiến nộp theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 144, khoản 1 điều 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 14, 53, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Dương Ngọc Nhiến và anh Phan Văn Nghĩa.
Về con chung: Giao cháu Dương Ngọc K, sinh ngày 17/5/2020 (hiện đang sống chung với anh Nghĩa) cho chị Nhiến trực tiếp nuôi dưỡng.
Kể từ ngày chị Nhiến có đơn yêu cầu, anh Nghĩa có nghĩa vụ giao cháu Kim cho chị Nhiến trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng.
Vấn đề cấp dưỡng chị Nhiến không đặt ra yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Anh Nghĩa không trực tiếp nuôi con, nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về tài sản chung: Chị N và anh N xác định không có. Về nợ chung: Chị N và anh N xác định không có.
Án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Dương Ngọc N nộp 300.000đ. Vào ngày 16 tháng 02 năm 2022, chị đã dự nộp 300.000đ theo biên lai số 0014737 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, được đối trừ sung ngân sách nhà nước, khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 23/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 23/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về