TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 01 tháng 4 năm 2022 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố V tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 05/2022/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp “Xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1968; nơi cư trú: Số nhà 67, Khóm B, Phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, có đơn xin vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Anh D, sinh năm 1968; nơi cư trú: Số nhà 52, đường N, Khóm H, Phường B, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 17 tháng 12 năm 2021 nguyên đơn bà Trần Thị T trình bày: Bà và ông Nguyễn Anh D quen biết nhau từ năm 1991 và sau đó đã chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm với nhau về kinh tế, đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên bà và ông D sống ly thân từ năm 1994 đến nay, vì vậy bà xin ly hôn với ông D.
Bà và ông D sống với nhau có 01 người con chung tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 04 tháng 8 năm 1994, hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tài sản chung; nợ chung: Không có phát sinh, nên không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn ông D trình bày: Ông thừa nhận lời trình bày của bà T là đúng về hôn nhân, về con chung, tài sản chung và nợ chung. Ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà T, vì hiện nay hai người đều có cuộc sống riêng tư, các vấn đề khác ông không yêu cầu giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị T và ông Nguyễn Anh D chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn đúng trình tự quy định của pháp luật. Sống chung với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, nên bà T có đơn yêu cầu xin được ly hôn với ông D, ông D có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Vĩnh Long.
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, Tòa án nhân dân thành phố V thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, nguyên đơn, bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên áp dụng khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.
[2] Về nội dung: Theo chứng cứ do đương sự cung cấp có trong hồ sơ vụ án, thể hiện bà T và ông D chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1991 mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn và không tự giải quyết được, cuộc sống không hạnh phúc nên bà T có đơn xin ly hôn với ông D và ông D cũng đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, bà T và ông D chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1991 mà không có đăng ký kết hôn theo quy định, vì vậy việc bà T xin ly hôn và ông D thuận tình ly hôn là không đủ cơ sở chấp nhận, vì tại khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng... ”. Như vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông D là đúng quy định của pháp luật.
[3] Về con chung: Bà T và ông D sống với nhau có 01 người con chung tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 04/8/1994, hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có phát sinh và các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết.
[5] Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình phải chịu tiền án phí, do đó bà T phải nộp án phí số tiền 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị T và ông Nguyễn Anh D.
2. Về con chung; tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, vì các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết
3. Về án phí sơ thẩm:
Buộc bà Trần Thị T nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm, trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, theo biên lai thu tiền số 0000925 ngày 29/12/2021, bà T đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 20/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 20/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về