Bản án về không công nhận là vợ chồng, tranh chấp con chung, tài sản chung số 21/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2021 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG, TRANH CHẤP CON CHUNG, TÀI SẢN CHUNG

Trong ngày 05 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh ĐăkLăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021, về việc “Kiện không công nhận là vợ chồng, tranh chấp con chung, tài sản chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị H, sinh năm 1975 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn 4, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

- Bị đơn: Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1969 (Có mặt) Địa chỉ: Số nhà 79, thôn 4, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 06/4/2021, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hồ Thị H trình bày:

Bà và ông Hoàng Văn C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1993, không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, cãi vã. Mặc dù ông bà đã cố gắng giải quyết các mâu thuẫn, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả. Nay bà nhận thấy mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, bà yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông Hoàng Văn C là vợ chồng.

Về con chung: ông bà có 03 con chung là cháu Hoàng Văn P, sinh ngày 24/4/1993, Hoàng Thị Mỹ H, sinh ngày 04/01/1996, Hoàng Bá T, sinh ngày 22/01/2013; hai cháu P và H đã trưởng thành, còn cháu Trọng bà có nguyện vọng nuôi dưỡng, không yêu cầu ông Hoàng Văn C cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Quá trình khởi kiện bà có yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung của bà và ông C, tuy nhiên sau đó giữa bà và ông C thống nhất tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tài sản chung nên bà đã làm đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc phân chia tài sản chung. Do đó, về vấn đề tài sản chung và nợ chung ông bà tự thỏa thuận; không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Hoàng Văn C trình bày:

Về thời gian chung sống, mâu thuẫn vợ chồng và con chung như bà H trình bày là đúng ông không bổ sung gì thêm. Đối với yêu cầu không công nhận là vợ chồng của bà H thì ông xác định mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống, yêu cầu tòa án không công nhận ông và bà H là vợ chồng.

Về con chung: Ông đồng ý giao cháu Hoàng Bá T cho bà H nuôi dưỡng, nếu bà H không nuôi được thì giao cho ông nuôi chứ ông không đồng ý cấp dưỡng.

Tài sản chung và nợ chung: ông bà tự thỏa thuận; không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Đối với Thẩm phán về cơ bản đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đối với Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn, bị đơn thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 14, 53; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị H: Không công nhận bà Hồ Thị H và ông Hoàng Văn C là vợ chồng. Về con chung: Giao con chung là cháu Hoàng Bá T, sinh ngày 22/01/2013 cho bà Hồ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Đình chỉ phần yêu cầu của bà Hồ Thị H về việc giải quyết tài sản chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận là vợ chồng, tranh chấp con chung, tài sản chung với bị đơn có nơi cư trú tại thôn 4, thị trấn E, huyện C nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào lời trình bày của đương sự và các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Bà Hồ Thị H và ông Hoàng Văn C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1993 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc chung sống như vợ chồng giữa bà H và ông C không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, hôn nhân giữa bà H và ông C không được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống các bên phát sinh nhiều mâu thuẫn, cả bà H và ông C đều có yêu cầu Tòa án không công nhận ông bà là vợ chồng. Vì vậy, việc tuyên bố bà Hồ Thị H và ông Hoàng Văn C không phải là vợ chồng là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Ông bà có 03 con chung là cháu Hoàng Văn P, sinh ngày 24/4/1993, Hoàng Thị Mỹ H, sinh ngày 04/01/1996, Hoàng Bá T, sinh ngày 22/01/2013. Hai cháu P và H đã trưởng thành, còn cháu T bà H có nguyện vọng nuôi dưỡng và ông C đồng ý giao con cho bà H nuôi; cháu T cũng có nguyện vọng được ở với bà H nên cần chấp nhận yêu cầu của bà H về việc nuôi cháu T đến khi đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Tại đơn khởi kiện bà Hồ Thị H có yêu cầu phân chia tài sản chung của bà H và ông C. Ngày 09/6/2021 bà Hồ Thị H có làm đơn xin rút yêu cầu phân chia tài sản chung. Tại phiên tòa các đương sự đều xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do đó về phần tài sản chung và nợ chung Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị H đối với yêu cầu phần chia tài sản chung.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Bị đơn không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273; điểm c khoản 1 Điều 217 và khoản 3 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5, điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị H.

1. Tuyên bố bà Hồ Thị H và ông Hoàng Văn C không phải là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Bá T, sinh ngày 22/01/2013 cho bà Hồ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.

Ông Hoàng Văn C được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản quyền này.

3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị H về việc phân chia tài sản chung.

4. Về án phí: Bà Hồ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 9.300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001108 ngày 04/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CưM’gar, tỉnh ĐắkLắk. Bà Hồ Thị H được nhận lại số tiền 9.000.000 đồng.

Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về không công nhận là vợ chồng, tranh chấp con chung, tài sản chung số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;