TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 03/2022/HC-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ KHỞI KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH
Ngày 10 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 02/2022/TLST-HC ngày 14 tháng 02 năm 2022 về việc “khởi kiện hành vi hành chính” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐST-HC ngày 11 tháng 7 năm 2022, quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST-HC ngày 28/7/2022 giữa các đương sự:
Người khởi kiện:
-Ông Phạm Văn M, sinh năm 1962 -Bà Phạm Thị T, sinh năm 1964 Địa chỉ: Tổ 1, khu phố H, phường K, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Ông M vắng mặt, bà T có mặt).
Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường K, thành phố Bà Rịa. Địa chỉ: Khu phố K, phường K, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn C - Phó chủ tịch UBND phường K (có mặt)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Bà Lê Thị Như N - Công chức địa chính phường K. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, bản tự khai của người khởi kiện - bà Phạm Thị T, ông Phạm Văn M trình bày:
Ngày 06/01/2022, Ủy ban nhân dân phường K niêm yết danh sách (Họ và tên, địa chỉ của ông Phạm Văn M, bà Phạm Thị T) đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất nhưng không niêm yết công khai về nguồn gốc đất của và các tài sản gắn liền với đất mà ông M, bà T đăng ký cấp giấy CNQSD đất, trong khi ông bà đã cung cấp chứng từ hợp pháp trong hồ sơ. Như vậy là niêm yết không theo đúng nội dung của pháp luật, gây thiệt hại quyền lợi hợp pháp của ông bà trong việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy ngày 10/01/2022 ông M và bà T khiếu nại đến chủ tịch UBND phường K để yêu cầu giải quyết khiếu nại lần đầu theo thẩm quyền. Tuy nhiên chủ tịch UBND phường không ban hành thông báo thụ lý hoặc không thụ lý đơn khiếu nại. Vì vậy ông M và bà T khởi kiện ra Tòa đề nghị tuyên bố hành vi không ban hành thông báo thụ lý hoặc không thụ lý đơn khiếu nại là hành vi trái pháp luật.
Sau khi ông M và bà T khởi kiện, Chủ tịch UBND phường K ban hành Thông báo số 35/UBND-VP ngày 09/3/2022 không thụ lý đơn khiếu nại của ông M, bà T.
Ông M và bà T thay đổi nội dung khởi kiện thành: đề nghị Tòa án tuyên bố sau 60 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại của bà T và ông M đề ngày 10/01/2022, chủ tịch Ủy ban phường K mới ban hành thông báo số 35/UBND- VP ngày 09/3/2022 về việc không thụ lý đơn khiếu nại đề ngày 10/01/2022 của bà T và ông M là hành vi trái pháp luật, vi phạm Điều 27 của Luật khiếu nại về thời hạn thụ lý giải quyết khiếu nại.
Người đại diện người bị kiện Chủ tịch UBND phường K trình bày:
Tại thời điểm tiếp nhận đơn khiếu nại của bà Phạm Thị T và ông Phạm Văn M, công chức địa chính của phường luân chuyển công tác, cán bộ mới về chưa nắm bắt được công việc để tham mưu. Do đó phường ban hành thông báo số 35/UBND-VP ngày 09/3/2022 chậm trễ so với quy định. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Vụ án thụ lý đúng theo thẩm quyền, Thẩm phán đã tiến hành thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T, ông Phạm Văn M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, qua kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Bà Phạm Thị T, ông Phạm Văn M khởi kiện hành vi không ban hành thông báo thụ lý hoặc thông báo không thụ lý đơn khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân phường K, thành phố Bà Rịa đối với việc niêm yết danh sách (Họ và tên, địa chỉ của ông Phạm Văn M, bà Phạm Thị T) đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất nhưng không niêm yết công khai về nguồn gốc đất và các tài sản gắn liền với đất mà ông M, bà T đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong khi ông bà đã cung cấp chứng từ hợp pháp trong hồ sơ. Đây là hành vi hành chính Tộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Bà Rịa theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật tố tụng hành chính.
Ngày 14/3/2022, bà T và ông M thay đổi yêu cầu khởi kiện: Đề nghị Tòa án tuyên: sau 60 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại của bà T và ông M đề ngày 10/01/2022, chủ tịch Ủy ban phường K mới ban hành thông báo số 35/UBND-VP ngày 09/3/2022 về việc không thụ lý đơn khiếu nại đề ngày 10/01/2022 của bà T và ông M là hành vi trái pháp luật, vi phạm Điều 27 của Luật khiếu nại về thời hạn thụ lý giải quyết khiếu nại. Nội dung thay đổi yêu cầu của ông M, bà T Tộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Bà Rịa theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật tố tụng hành chính.
[1.2] Người khởi kiện ông Phạm Văn M vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt, theo quy định tại Điều 157 và Điều 158 của Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử xử vắng mặt người khởi kiện.
[2] Về nội dung:
Ông Phạm Văn M và bà Phạm Thị T đề nghị Tòa án tuyên: sau 60 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại của bà T và ông M đề ngày 10/01/2022, chủ tịch Ủy ban phường K mới ban hành thông báo số 35/UBND-VP ngày 09/3/2022 về việc không thụ lý đơn khiếu nại đề ngày 10/01/2022 của bà T và ông M là hành vi trái pháp luật, vi phạm Điều 27 của Luật khiếu nại về thời hạn thụ lý giải quyết khiếu nại.
Thấy rằng: Ủy ban nhân dân phường K đã nhận đơn khiếu nại lần đầu của ông M và bà T vào ngày 10/01/2022 nhưng đến ngày 09/3/2022, Chủ tịch UBND phường mới ra thông báo không thụ lý đơn là chậm trễ so với quy định tại Điều 27 Luật khiếu nại.
Điều 27 Luật khiếu nại quy định: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại Tộc thẩm quyền mà không Tộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 11 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.
Từ đó ông M và bà T khởi kiện hành vi ban hành thông báo chậm là có cơ sở, cần chấp nhận.
[3] Về án phí: Chủ tịch UBND phường K phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 31, Điều 157, 158 của Luật tố tụng hành chính; Điều 27 của Luật khiếu nại;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm văn M và bà Phạm Thị T về việc “Khởi kiện hành vi hành chính” của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường K, thành phố Bà Rịa.
Tuyên bố hành vi của Chủ tịch UBND phường K ban hành thông báo số 35/TB-UBND ngày 09/3/2022 về việc không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại lần đầu ngày 10/01/2022 của ông M và bà T là chậm, vi phạm quy định tai Điều 27 của Luật khiếu nại.
Về án phí: Chủ tịch UBND phường K phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Phạm Văn M và bà Phạm Thị T số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai T số 0004267 ngày 14/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/8/2022), đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về khởi kiện hành vi hành chính số 03/2022/HC-ST
Số hiệu: | 03/2022/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 10/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về