TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 01/2022/HC-PT NGÀY 11/08/2022 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Trong ngày 11 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2022/TLPT-HC ngày 18 tháng 7 năm 2022 về việc: “Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự xã hội”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 01/2022/HC-ST ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X. bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2022/QĐ-PT ngày 25 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Cao Văn Th., sinh năm 1964 Cư trú: số 7/8A, khóm H., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Cao Văn Th.: Ông Huỳnh Thanh T., sinh năm 1986; cư trú: ấp 5 (nay là ấp D.), xã B., huyện A., tỉnh An Giang (Theo giấy ủy quyền ngày 12/11/2021) - (Có mặt).
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Quốc T1. - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M. (Theo giấy ủy quyền ngày 01/8/2022) - Vắng mặt (có đơn đề nghị xử vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trưởng Công an phường M.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Hải B1. - Phó Trưởng Công an phường M. (Theo giấy ủy quyền ngày 01/8/2022) - Vắng mặt (có đơn đề nghị xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo hồ sơ cấp sơ thẩm thể hiện:
- Ông Cao Văn Th. khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M.. Bởi vì ông cho rằng:
Ngày 11/8/2020, ông bị Công an phường M. bắt quả tang về hành vi đánh bạc (tham gia chơi lắc bầu cua ăn thua bằng tiền, đặt 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng). Công an phường M. lập biên bản và ông có ký tên vào biên bản vi phạm hành chính ngày 11/8/2020. Tuy nhiên ông không được đọc biên bản mà chỉ nghe cán bộ Công an phường đọc vắn tắt, chung chung, cũng như Công an phường không giao biên bản cho ông là đã vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Đến ngày 12/8/2020 Công an phường M. yêu cầu ông Th. ký tên vào Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền là 1.500.000 đồng, cùng ngày ông Th. đã nộp phạt xong nhưng không lập biên lai thu tiền ngay mà đến ngày 25/9/2020 mới ra biên lai là không phù hợp. Công an phường cũng không giao Quyết định xử phạt vi phạm hành chính cho ông Th., không giải thích về quyền khiếu nại hay khởi kiện hành chính nên ông Th. không biết được các quyền để thực hiện.
Việc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường M. ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là không đúng thẩm quyền, mà lẽ ra phải do Trưởng Công an phường M. là Cơ quan bắt quả tang, lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Do quy trình xử phạt không đúng theo quy định, không đúng thẩm quyền nên ông Cao Văn Th. khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M..
- Bản trình bày ý kiến số: 271/UBND-CA, ngày 08/3/2022 của Chủ tịch ủy ban nhân dân phường M. với nội dung:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11/8/2020, Công an phường M. kết hợp Bảo vệ dân phố tiến hành tuần tra kiểm soát an ninh trật tự và phòng chống tệ nạn trên địa bàn, khi đến khu vực tổ 36, khóm H., phường M., thành phố X. thì phát hiện 03 đối tượng gồm: Huỳnh Minh H1., Cao Văn Th. và Nguyễn Thanh Ph. đang tham gia đánh bạc (lắc bầu cua) ăn thua bằng tiền nên đã mời về trụ sở lập hồ sơ. Quá trình làm việc, các ông H1., Th. và Ph. thừa nhận hành vi vi phạm nên Công an Phường M. đã lập biên bản vi phạm hành chính số 0070406, ngày 11/8/2020 đối với Huỳnh Minh H1.; biên bản vi phạm hành chính số 0070404, ngày 11/8/2020 đối với Cao Văn Th. và biên bản vi phạm hành chính số 0070405, ngày 11/8/2020 đối với Nguyễn Thanh Ph. cùng về hành vi “đánh bạc trái phép bằng hình thức khác mà được thua bằng tiền (lắc bầu cua)”.
Công an phường đã tiến hành xác minh nhanh và tra cứu tiền án, tiền sự của các ông H1., Th. và Ph. và được Phòng hồ sơ Công an tỉnh An Giang xác định các ông chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc.
Căn cứ vào tính chất vụ việc nên Công an phường M. đã báo cáo đề xuất và tham mưu cho Chủ tịch ủy ban nhân dân phường M. ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044769/QĐ-XPHC, ngày 12/8/2020 đối với Huỳnh Minh H1.; Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12/8/2020 đối với Cao Văn Th. và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044768/QĐ-XPHC, ngày 12/8/2020 đối với Nguyễn Thanh Ph., cùng về hành vi “đánh bạc trái phép bằng hình thức khác mà được thua bằng tiền (lắc bầu cua)” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 26 Nghị định số 167/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính Phủ với mức phạt tiền 1.500.000 đồng/người. Đến ngày 25/9/2020 thì các ông H1., Th. và Ph. đã chấp hành xong quyết định.
Chủ tịch ủy ban nhân dân phường M. ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Cao Văn Th. là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trưởng Công an phường M. có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày:
Những vấn đề liên quan đến vụ án đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường M. trình bày theo văn bản số: 271/UBND-CA, ngày 08/3/2022, Công an phường M. cũng đã sao gửi toàn bộ hồ sơ xử lý ông Th. đến Toà án. Đồng thời, qua kiểm tra hồ sơ thấy về thời gian, trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt là đúng quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X. quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Cao Văn Th. về việc yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M..
Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Cao Văn Th. phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001001, ngày 22/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố X., tỉnh An Giang.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24/5/2022, ông Cao Văn Th. kháng cáo đề nghị sửa án Bản án sơ thẩm, hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M..
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện người khởi kiện cho rằng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường M.
ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là không đúng thẩm quyền, mà lẽ ra phải do Trưởng Công an phường M. là Cơ quan bắt quả tang, lập biên bản vi phạm hành chính và tra cứu tiền án, tiền sự của ông Th. ban hành, theo quy định tại khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính. Do không đúng thẩm quyền ban hành Quyết định xử phạt nên đề nghị HĐXX sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cao Văn Th., hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M..
Ý kiến của Kiểm sát viên: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật.
Nhận thấy, ông Th. đã có hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Vì vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M. ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Th. là đúng thẩm quyền quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Nghị định 167/2013/NĐ-CP và điểm b khoản 1 Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC ngày 12/8/2020: Ngày 11/8/2020, ông Cao Văn Th. đã có hành vi đánh bạc nên Công an phường M. đã lập biên bản vi phạm hành chính số 0070404 đối với ông Th. là đúng quy định tại Điều 57, Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Đến ngày 12/8/2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M. ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Th. trong thời hạn 07 ngày, đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Từ những phân tích trên cho thấy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M. ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Th. là đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục như quy định tại điểm c khoản 4 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 19/5/2022, ông Huỳnh Thanh T. là người đại diện hợp pháp của ông Th. cũng đã thừa nhận hành vi của ông Th. là vi phạm và thống nhất nếu vi phạm thì phải xử phạt vi phạm hành chính. Ông Th. kháng cáo ngoài lời trình bày của ông thì không có chứng cứ nào mới, nên không có cơ sở để chấp nhận.
Bởi các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015: Bác kháng cáo của ông Cao Văn Th., giữ nguyễn quyết định của Bản án sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 19/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố X..
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, nghe lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
- Tại phiên tòa, người bị kiện vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt. Căn cứ khoản 4 Điều 225 của Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án.
- Về đối tượng khởi kiện, về thẩm quyền xét xử, về thời hiệu khởi kiện như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là hoàn toàn đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Về nội dung: Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa thể hiện:
Ngày 11/8/2020, ông Cao Văn Th. cùng một số người khác có hành vi đánh bạc tại khu vực tổ 23, khóm H., phường M., thành phố X. thì bị Công an phường M. trên đường tuần tra bắt quả tang. Hành vi vi phạm của ông Th. được điều chỉnh tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy phòng chống bạo lực gia đình.
Trên cơ sở xác định hành vi sai phạm của ông Th., Công an phường M. đã lập Biên bản vi phạm hành chính đối với ông Th. vào lúc 21g10 phút ngày 11/8/2020. Biên bản này phù hợp với quy định tại Điều 58 Luật xử lý vi phạm Hành chính và Điều 6 Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.
Ngày 12 tháng 8 năm 2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M. ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC đối với ông Cao Văn Th. với mức phạt 1.500.000đồng là có căn cứ và phù hợp về thời hiệu, thẩm quyền và thời hạn ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 6; khoản 1 Điều 38; khoản 3 Điều 52; Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính và điểm a khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính Phủ.
Việc người khởi kiện cho rằng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường M. ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là không đúng thẩm quyền mà lẽ ra phải do Trưởng Công an phường M. là Cơ quan bắt quả tang, lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Th. ban hành quyết định xử phạt là không có cơ sở. Bởi vì: tại khoản 3 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định “3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương…”, mặt khác một trong các các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương của Chủ tịch UBND phường M. có lĩnh vực quản lý về an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương phường M. nên việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M. ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC đối với ông Cao Văn Th. với mức phạt 1.500.000đồng là thuộc thẩm quyền. Do đó Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố X. không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cao Văn Th. là có căn cứ.
Ông Th. kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được các chứng cứ mới hoặc các căn cứ khác để bảo vệ cho yêu cầu kháng cáo của mình nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.
[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của ông Th. không được chấp nhận nên ông phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
Áp dụng:
QUYẾT ĐỊNH
+ Khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
+ Khoản 1 Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Phúc xử:
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Cao Văn Th..
Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X..
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Cao Văn Th. về việc yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0044767/QĐ-XPHC, ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M..
Ông Cao Văn Th. phải chịu án phí hành chính phúc thẩm 300.000đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo các biên lai thu số 0001376 ngày 01/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X..
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/2022/HC-PT
Số hiệu: | 01/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 11/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về