Bản án 04/2023/HC-ST về khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 04/2023/HC-ST NGÀY 28/02/2023 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 28 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2022/TLST-HC ngày 10 tháng 5 năm 2022 về Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2023/QĐXXST-HC ngày 07 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Mằn Phu L, sinh năm: 1975.

Địa chỉ: Số 84C, phố 3, ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Đ.

Địa chỉ: Khu phố Hiệp Tâm 1, thị trấn Đ, huyện Đn, tỉnh Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Đ:

Ông Trần Nam B, chức vụ: Chủ tịch.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Mằn Phu V, sinh năm: 1980.

2/ Bà Trần Sủi P, sinh năm: 1978.

Cùng địa chỉ: Số 84A, phố 3, ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

3/ Bà Chềnh Nhộc M, sinh năm: 1975.

Địa chỉ: Số 84C, phố 3, ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

(Ông L, bà M, ông V và bà P có mặt, người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Đ có đơn đề nghị vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 14/4/2022, bản tự khai, biên bản biên bản đối thoại và tại phiên tòa người khởi kiện ông Mằn Phu L trình bày:

Vào ngày 20/12/2002, ông được cha là cụ Mằn S và mẹ là cụ Nguyễn Thị H tặng cho thửa đất có diện tích 7m x 26,8m = 188m2 (trong đó có 139m2 đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 49m2 đất lộ giới) tọa lạc tại ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Khi tặng cho có lập biên bản gia tộc có sự chứng kiến của cha mẹ, chị ruột là Mằn Chắn C, em ruột là Mằn Phu V và ông. Vị trí đất của ông nằm sát bên phải vị trí đất của bà C theo hướng quay mặt ra hướng đường Phú Lợi đi Phú Hòa. Sau khi được cha mẹ tặng cho đất thì ông dựng căn nhà bằng cây gỗ, nền tráng xi măng có diện tích 4m x 12m = 48m2 để ở. Đến ngày 25/12/2003, ông được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 113373 thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29 (trong đó có 139m2 được cấp và 49m2 đất lộ giới).

Đến năm 2005, ông làm nhà ở chỗ khác nên chuyển về nhà mới sinh sống còn nhà cũ thì ông tháo dỡ nhưng vẫn còn lại nền xi măng và cây bơ do ông trồng. Do chưa có nhu cầu sử dụng nên cho ông V mượn đất để trồng chuối phía sau, cho bà C mượn đất để trồng rau ở phía trước. Từ năm 2003 đến nay ông nộp thuế đầy đủ, trong quá trình sử dụng thì các anh chị em không tranh chấp.

Đến đầu năm 2022, ông phát hiện đất của mình thuộc thửa số 18, tờ bản đồ số 29 tại xã Phú Lợi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 113373 ngày 25/12/2003 cho ông đã bị Ủy ban nhân dân huyện Đ Quán cấp trùng vào thửa đất của ông V theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) ngày 06/10/2008 với tổng diện tích 1.107m2 thuộc thửa số 284, tờ bản đồ 29 tại xã P, huyện Đ. Việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp diện tích 188m2 của ông vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) của ông V đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông. Do đó, ông yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Mằn Phu V ngày 06/10/2008 (tổng diện tích 1.107m2 thuộc thửa số 284, tờ bản đồ số 29 tại xã P). Ông cam đoan không đồng thời khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

- Theo công Văn số 2392/UBND-ND ngày 31/5/022, Ủy ban nhân dân huyện Đ có ý kiến như sau:

Ủy ban nhân dân huyện Đ đồng ý hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO1004) đã cấp ngày 06/10/2008 cho ông Mằn Phu V đối với diện tích 1.107m2 thuộc thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai sau khi có quyết định giải quyết vụ án của Tòa án.

Ngoài ra, người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Đ đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt tại phiên họp đối thoại và tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mằn Phu V trình bày:

Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông L về việc yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông ngày 06/10/2008 với tổng diện tích 1.107m2 thuộc thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29 tại xã P. Bởi lẽ: Vào ngày 20/12/2007, ông được cha là cụ Mằn S và mẹ là cụ Nguyễn Thị H tặng cho thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.107m2. Về nguồn gốc đất là do cha mẹ là cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H tự khai phá và tặng cho ông. Vào năm 2008, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29 diện tích 1.107m2 trong đó được diện tích đất được cấp cấp 836m2, không được cấp 272m2 và sử dụng đến nay không có tranh chấp.

Cha ông cụ Mằn S chết ngày 08/7/2019, còn mẹ ông cụ H bị tai biến bại liệt từ ngày 19/10/2014. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L và nội dung biên bản hội đồng gia tộc. Vì cha ông đã tặng cho ông L một thửa đất số 138 (tách từ thửa 284), tờ bản đồ 29, diện tích 143m2 tại xã P.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Chềnh Nhộc M đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Sủi P thống nhất với ý kiến của ông Mằn Phu V.

- Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tinh Đông Nai tại phiên tòa:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đọc đầy đủ nội dung bài phát biểu, thể hiện một số nội dung chính, như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành và thực hiện theo đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

Việc tuân theo pháp luật của đương sự: Người khởi kiện thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Người bị kiện cơ bản thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật tố tụng hành chính nhưng chưa tham gia đầy đủ các phiên họp, phiên tòa. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Thời hiệu khởi kiện: Thởi hiệu khởi kiện vẫn còn theo quy định tại khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính.

Về quan hệ pháp luật: Tòa án xác định quan hệ pháp luật “Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là đúng yêu cầu khởi kiện của đương sự, đúng quy định của pháp luật.

Về thời hạn giải quyết vụ án: Tòa án đảm bảo đúng thời hạn giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 130 của Luật tố tụng hành chính.

Về cấp, tống đạt văn bản tố tụng: Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về thu thập chứng cứ: Tòa án đã thu thập đầy đủ chứng cứ theo quy định tại Điều 84 của Luật tố tụng hành chính.

Về đường lối giải quyết vụ án:

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất thửa số 284, tờ bản đồ số 29, tại xã P, huyện Đ là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật.

Về nội dung, tính có căn cứ của quyết định hành chính bị khởi kiện: Việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông V đối với thửa đất thửa số 284, tờ bản đồ số 29, tại xã P, huyện Đ là có căn cứ đảm bảo đúng quy định của Luật đất đai năm 2003.

Từ những phân tích trên cho thấy yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị căn cứ Điều 49, Điều 50 và Điều 129 của Luật đất đai năm 2003, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 của Luật tố tụng hành chính: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) cấp ngày 06/10/2008 cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Ông Mằn Phu L yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) cấp ngày 06/10/2008 cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, xác định quan hệ pháp luật là “Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Ông Mằn Phu L khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, theo quy định tại Điều 30, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính.

[1.3] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 06/10/2008, ông Mằn Phu V được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Vào khoảng cuối năm 2021 đầu năm 2022, ông Mằn Phu L cho rằng mới biết thửa đất của mình đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Mằn Phu V vào năm 2008. Ngày 09/12/2021 và 14/4/2022, ông L có đơn khởi kiện, do đó việc khởi kiện của người khởi kiện ông Mằn Phu L là còn thời hiệu theo quy định tại Điều 116 của Luật tố tụng hành chính.

[1.4] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Đ có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cư Điều 157, Điều 158 của Luât tố tung hanh chinh, tiến hanh xet xư vắng măt người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Đ.

[1.5] Về xác định tư cách đương sự: Ông Mằn Phu L không khiếu nại việc cụ Mằn S đã chuyển nhượng quyền sử dụng tại thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29, xã P cho ông Nguyễn Trung T, ông T chuyển nhượng cho bà Vòng Thị N, bà N chuyển nhượng cho ông Ngô Thanh L và bà Cao Thị Kim H, ông L và bà H chuyển nhượng cho ông Trần Mùn D và bà Sầu Nhộc L. Vì vậy, Tòa án không đưa ông Nguyễn Trung T, bà Vòng Thị N, ông Ngô Thanh L, bà Cao Thị Kim H, ông Trần Mùn D và bà Sầu Nhộc L tham gia tố tụng. Ông Mằn Phu V được cha là cụ Mằn S và mẹ là cụ Nguyễn Thị H tặng cho quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 (số vào sổ HO 1004) đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29 diện tích 1.107m2. Ông L khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông V nên khi cụ Mằn S chết thì không làm phát sinh quyền thừa kế của cụ H và những người con khác của cụ Mằn S (trừ ông L và ông V đang là đương sự trong vụ kiện), do đó không đưa cụ H và những người con khác của cụ Mằn S tham gia tố tụng.

[2] Xét tính hợp pháp của việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 ngày 06/10/2008 cho ông Mằn Phu V:

[2.1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mằn Phu V:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Ông Mằn Phu L và ông Mằn Phu V là con ruột của cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H. Cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 18/6/1993. Cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H đã làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông L và ông V, cụ thể như sau:

- Đối với việc tặng cho đất cho ông Mằn Phu L:

Ngày 26/12/2002, ông Lồng được cụ Mằn S và Cụ Nguyễn Thị H tặng cho 139m2 đất tại thửa số là 18, tờ bản đồ số 29, xã P, huyện Đ (có lập biên bản hội đồng gia tộc), ông L được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 113373 ngày 25/12/2003 với diện tích 139m2 tại thửa số 18, tờ bản đồ số 29, xã Phú Lợi (bút lục số 06, 07, 08). Ông L xác định việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho ông là đúng.

Ngày 20/12/2007, ông L và bà Chềnh Nhộc M (vợ ông L) được cụ Mằn S và Cụ Nguyễn Thị H tặng cho 143m2 đất tại thửa số 284B (tách từ thửa 284) có số thửa được cấp là 138, tờ bản đồ số 29, xã P, huyện Đ (có lập hợp đồng tặng cho). Ông L và bà M được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 291646 ngày 06/10/2008 với diện tích 143m2 tại thửa số 138, tờ bản đồ số 29, xã P (bút lục số 127, 128). Ông L và bà M xác định việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho ông bà là đúng.

Do các đương sự không khiếu nại, khởi kiện đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mằn Phu L nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Đối với tặng cho đất cho ông Mằn Phu V: Ngày 20/12/2007, ông V được cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H tặng cho 4.471m2 đất tại các thửa số 13, 24 và 284, tờ bản đồ số 29, xã P, huyện Đ (có lập hợp đồng tặng cho). Ông Mằn Phu V đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303061, AN 303062 và AN 303063 ngày 06/10/2008 với diện tích 4.471m2 tại thửa số 13, 24 và 284, tờ bản đồ số 29, xã P (bút lục số 121, 122, 124).

Thửa số 284, tờ bản đồ số 29, xã P có diện tích 1.107m2 (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 - bút lục 42). Ông V xác định việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho ông là đúng.

Đối chiếu quy định tại Điều 49, Điều 50, Điều 123 và Điều 129 của Luật đất đai năm 2003 và Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 ngày 06/10/2008 cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.107m2 tọa lạc tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục.

[2.2]: Xét tính hợp pháp của việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.107m2 tọa lạc tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai:

Về nguồn gốc đất: Theo chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án thì thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.107m2 tọa lạc tại xã P, huyện Đ có nguồn gốc đất thể hiện như sau: Cụ Mằn S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 đối với các thửa đất số 402 (diện tích 495m2) và thửa đất số 403 (diện tích 8.120m2), tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại xã P cũ (nay là xã P, huyện Đ. Năm 1995, cụ Mằn S đã chuyển nhượng thửa đất số 402 và một phần thửa đất số 403 cho ông Nguyễn Công T. Diện tích thửa đất số 403 của cụ Mằn S còn lại là 7.320m2. Năm 2000, cụ Mằn S tiếp tục chuyển nhượng 206,5m2 đất màu nằm trong thửa số 403, diện tích còn lại của thửa số 403, tờ bản đồ số 18 là 7.113,5m2. Ngày 04/8/2003, Ủy ban nhân dân huyện Đ điều chỉnh diện tích thửa đất số 403, tờ bản đồ số 03 (18 P cũ) từ 7.113,5m2 xuống còn diện tích 5.648m2 gồm 05 thửa: 13, 17, 18, 19 và 24, tờ bản đồ số 29 mới theo kết quả thực tế đo mới (diện tích chênh lệch giảm 1.465,5m2 do mở đường giao thông nông thôn). Đã xin chuyển nhượng quyền sử dụng cho ông Nguyễn Trung T thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29, diện tích 139m2. Diện tích còn lại sử dụng là 5.480m2 (bút lục số 29, 30, 31). Ngày 01/10/2008, Ủy ban nhân dân huyện Đ đã điều chỉnh thửa đất số 13, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.370m2 theo bản đồ đã được chỉnh lý nay là thửa 284. Tổng diện tích sử dụng trong giấy chứng nhận này là 5.030m2 thuộc 04 thửa: 17, 19, 24 và 284, tờ bản đồ số 29, xã P (bút lục số 48). Ngày 20/12/2007, cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H lập hợp đồng tặng cho ông L và bà Chềnh Nhộc M thửa số 138 (tức là thửa 284B tách từ thửa 284), tờ bản đồ số 29, diện tích 143m2, ông L và bà M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 291646 ngày 06/10/2008 (bút lục số 127, 128, 129, 130, 132). Các đương sự trong vụ án không khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho ông L và bà M. Cùng ngày 20/12/2007, cụ S và cụ H cũng lập hợp đồng tặng cho ông V các thửa đất số 24, 13 và 284 (284A và 284C), tờ bản đồ số 29, tổng diện tích là 4.471m2, ông V được cấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303061 (thửa đất số 13, tờ bản đồ số 29, diện tích 120m2), AN 303062 (thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.107m2) và AN 303063 (thửa đất số 24, tờ bản đồ số 29, diện tích 3.241m2) ngày 06/10/2008 (bút lục số 120, 121, 122, 124, 125, 126, 132). Các đương sự không khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 13 và thửa số 24 cho ông V.

Ông Mằn Phu L khiếu kiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 284, tờ bản đồ số 29, xã P cho ông Mằn Phu V với lý do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp trùng thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29, diện tích 139m2 vào thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29 cấp cho ông Mằn Phu V. Xét thấy:

- Tại Văn bản số 314/VPĐKĐĐ-CNĐQ.TTLT ngày 18/11/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - chi nhánh Đ xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mằn Phu V tại thửa số 284, tờ bản đồ số 29 là đúng quy định của pháp luật. Thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29 - Bản đồ địa chính xã P (là một phần thửa 403, tờ bản đồ 18 cũ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 299618 ngày 18/6/1993 cho cụ Mằn S), được chỉnh lý ngày 04/8/2003. Sau đó cụ Mằn S đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Trung T. Thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29 - Bản đồ địa chính xã P, huyện Đ đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 113373 ngày 25/12/2003 cho ông Mằn Phu L. Như vậy, căn cứ hồ sơ và đối chiếu bản đồ nhận thấy, thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29 - Bản đồ địa chính xã P, huyện Đ đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 113373 ngày 25/12/2003 cho ông Mằn Phu L bị trùng với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29, xã P mà cụ Mằn S đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Trung T, ông T được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 714446 ngày 04/8/2003 (bút lục số 148).

- Bên cạnh đó, ngày 26/12/2002, ông L được cụ Mằn S và cụ Nguyễn Thị H tặng cho 139m2 đất tại thửa số 18, tờ bản đồ số 29, xã P, huyện Đ (có lập biên bản hội đồng gia tộc), cùng ngày ông L có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất (có xác nhận của cấp có thẩm quyền) và ông L được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 113373 ngày 25/12/2003 với diện tích 139m2 tại thửa số 18, tờ bản đồ số 29, xã P (bút lục số 06, 07, 08). Tuy nhiên, ngày 04/8/2003, Ủy ban nhân dân huyện Đ điều chỉnh diện tích thửa đất số 403, tờ bản đồ số 03 (18 Phú Hoa cũ) từ 7.113,5m2 xuống còn diện tích 5.648m2 gồm 05 thửa: 13, 17, 18, 19 và 24, tờ bản đồ số 29 thì cụ Mằn S đã chuyển nhượng thửa đất số 18, tờ bản đồ số 29, diện tích 139m2 (thửa đất mà cụ S và cụ H tặng cho ông Mằn Phu L) cho ông Nguyễn Trung T (việc chuyển nhượng được thực hiện trước ngày ông L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử đất như nêu trên (bút lục 132, 145, 146, 148).

- Hơn nữa, theo chứng cứ thu thập được thì thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29 được Ủy ban nhân dân huyện Đ điều chỉnh từ thửa số đất số 13, tờ bản đồ số 29 vào ngày 01/10/2008 (bút lục số 131). Do đó, không có việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp trùng thửa số 18, tờ bản đồ số 29, diện tích 139m2 tại xã P vào thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.170m2 tại xã P, huyện Đ đã cấp cho ông Mằn Phu V vào ngày 06/10/2008 như ông L trình bày.

Từ những phân tích trên cho thấy yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L là không có căn cứ, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Mằn Phu L về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 cấp ngày 06/10/2008 cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

[3] Về chi phí tố tụng: Ông Mằn Phu L phải chịu chi phí tố tụng là 300.000đ.

Ông Mằn Phu L đã nộp đủ tiền chi phí tố tụng.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L không được chấp nhận nên phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 300.000đ. Số tiền tạm ứng án phí ông Mằn Phu L đã nộp được tính vào tiền án phí phải chịu.

[5] Về quyền kháng cáo: Ông Mằn Phu L, ông Mằn Phu V, bà Trần Sủi P và bà Chềnh Nhộc M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ủy ban nhân dân huyện Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

[6] Quan điểm và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phù hợp tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên được chấp nhận.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 3, Điều 30, Điều 32, Điều 115, Điều 116, Điều 157, Điều 158, Điều 193, Điều 194, Điều 206 của Luật tố tụng hành chính 2015;

Áp dụng Điều 49, Điều 50, Điều 123, Điều 129 của Luật đất đai năm 2003;

Áp dụng Điều 38, Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Mằn Phu L về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 303062 ngày 06/10/2008 do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Mằn Phu V đối với thửa đất số 284, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.107m2 tọa lạc tại xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

Về án phí: Ông Mằn Phu L phải chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm là 300.000đ. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ ông Mằn Phu L đã nộp theo biên lai số 0000249 ngày 14/4/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí. Ông Mằn Phu L đã nộp đủ tiền án phí hành chính sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Ông Mằn Phu L, ông Mằn Phu V, bà Trần Sủi P và bà Chềnh Nhộc M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ủy ban nhân dân huyện Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2023/HC-ST về khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:04/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 28/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;