TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1193/2024/HC-PT NGÀY 11/11/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THUẾ
Ngày 05 và ngày 11 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 583/2024/TLPT-HC ngày 12 tháng 7 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế". Do Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2024/HC-ST ngày 16/01/2024 сủa Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 6449/2024/QĐPT ng 10/10/2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Công ty Cổ phần P1. Địa chỉ: C N, phường C, Qu A, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức T, chức vụ: Phó giám đã Có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Lưu V T1, Luật sư Văn phòng Luật sư Lưu Văn T1 - Đoàn Luật sư tỉnh B. Có mặt ng 05, vắng mặt ngày 11.
2. Νgười bị kiện:
2.1. Cục trưởng Cục thuế Thành phố H. Địa chỉ: F V, phường T, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại điện theo ủy quyền: Ông Giang Văn H, chức vụ: Phó Cục trưởng Cục thuế Thành phố H. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê Hữu C, chức vụ: Kiểm tra viên. Ông Ngô Hoàng P, chức vụ: Kiểm tra viên; bà Trịnh Thị Hồng L, chức vụ: Kiểm tra viên. Ông C có mặt; ông P, bà L có đơn xin xét vắng mặt; bà L có mặt khi tuyên án. 2.2. Tổng Cục trưởng T3. Địa chỉ: A L, phường Đ, quận H, thành phố E Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Mai Xuân T2, chức vụ: Tổng c Trưởng T3. Vắng mặt. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai S, chức vụ: Phó Tổng cục trưởn T3. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê V H1, chức vụ: Vụ phó Vụ pháp chế - T3. Có mặt ngày 05 vắng mặt ngày 11. Do có kháng cáo của người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tố tụng, ông Nguy Đức T là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện - Công ty Cổ ph P1 trình bày: Công ty Cổ phần P1 (sau đây gọi tắt là Công ty P1) là Đại lý bán lẻ của nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH Một thành viên theo Hợp đồng đại bán lẻ xăng dầu số: 24/HĐĐL/TTT/2012 ngày 09/01/2012. Theo yêu cầu quản lý của P2 khu vực II và Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên. Ngày 02/01/2013, Hợp đồng dịch vụ ba bên được ký giữa Công ty cổ phần P1 (Bên A), Ngân hàng N chi nhánh C1 (Bên B), nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên (Bên C) và hợp đồ dịch vụ số: 01/2014/XNBL-NHNo3, ngày 20/12/2014. Trong đó, chi tiết tại: Điều 1: Nội dung – (Hợp đồng dịch vụ số: 01/2013/XNBL-NHN03) Từ ngày thứ 2 đến thứ 7 hàng tuần, Bên B thực hiện thu tiền mặt VNÐ các cửa hàng của Bên A thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - địa chỉ B Phường F, quận T.
Chứng từ liên quan theo mẫu của Ngân hàng N chỉ nhánh C1 gồm có: Chứng từ giao dịch, giấy nộp tiền, bảng kê thanh toán theo hợp đồng; biên bản đối chiếu công nợ tháng. A CN3 sẽ nhận được một mức phí dịch vụ nhất định cho việc thu tiền và chuyển cho Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu (0,03% trên tổng số tiền thu được tháng và mức phí thu tiền ngày chủ nhật, ngày lễ, tết bằng 200% ngày thường). Xí nghiệp bản lẻ xăng dầu bán hàng xăng dầu cho Công ty P1 có lập hóa đơn GTGT bản hàng ghi rõ số lượng, đơn giả, thành tiền và kẻ khai thuế đầy đủ. Công ty P1 mua xăng dầu về đều có phiếu nhập kho, khi bán ra đêì lập háo đơn GTGT, ghi nhận doanh thu và thực hiện kê khai thuế GTGT đầy đủ.
Như vậy, thù lao đại lý mà Công ty P1 được hưởng là khoản chênh lệ giữa giá bán lẻ niêm yết do Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu quy định và giá Xí nghi bán lẻ xăng dầu bán cho Công ty P1 (giá thanh toán) và được thưởng thêm số bán được. Và việc thanh toán giữa Công ty P1 với Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu được thực hiện thông qua trung gian thanh toán, bên thứ ba bằng dịch vụ thu hộ chi hộ của A CN3. Công ty P1 có chứng từ thanh toán qua Ngân hàng đối với hàng hóa, dị vụ mua vào và theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp lu hiện hành về thanh toán. Chứng từ trung gian thanh toán, như vậy là đủ điều ki để được khấu trừ thuế GTGT của mặt hàng xăng dầu. Quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Ngày 03/12/2018, Cục thuế Thành phố H có Quyết định thanh tra 3146/QĐ-CT-TT thanh tra thuế tại Công ty P1. Thời kỳ thanh tra: Năm 2009 đ năm 2017. Sau đó, căn cứ Biên bản thanh tra thuế ngày 28/01/2019 và Kết lu thanh tra thuế số 181/KL-CT ngày 07/03/2019 của Cục thuế Thành phố H, C trưởng Cục thuế Thành phố H ban hành Quyết định số 1008/QĐ-CT ng 07/03/2019 xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Theo đó, cho rằng Công ty đã có hành vi kê khai sai làm tăng số thuế GTGT được khấu trừ và dẫn đến thì số tiền thuế GTGT, TNDN, TNCN phải nộp theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 103 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006, và quyết địn (i) xử phạt 2.682.547.902 đồng (Hai tỷ sáu trăm tám mươi hai triệu năm trăm bốn mươi bảy ngàn chín trăm lẻ hai đồng); (ii) truy thu thuế với số tiề 26.142.033.261 đồng (Hai mươi sáu tỷ một trăm bốn mươi hai triệu không trăm ba mươi ba ngàn hai trăm sáu mươi mốt đồng); (iii) số tiền chậm nộp tiền thuế 18.252.796.549 đồng (Bằng chữ: Mười tám tỷ hai trăm năm mươi hai triệu bảy trăm chín mươi sáu ngàn năm trăm bốn mươi chín đồng); (iv) điều chỉnh giả khấu trừ thuế giá trị gia tăng (viết tắt là GTGT) qua thanh tra 586.334 đồng (Bằng chữ: Năm trăm tám mươi sáu ngàn ba trăm ba mươi bốn đồng); (v) đìều chỉnh giảm lỗ 14.686.139.992 đồng (Mười bốn tỷ sáu trăm tám mươi sáu trìệu một trăm ba mươi chín ngàn chín trăm chín mươi hai đồng).
Không đồng ý với Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07/03/2019, Công ty P1 khiếu nại, đề nghị xem xét lại quyết định trên. Ngày 21/01/2020, Cục trưởng Cục thuế Thành phố H ban hành Quyết định số 04/QĐ-CT-KN giải quyết khiếu nại (lần đầu) của Công ty P1. Nội dung: Công ty P1 không khai thuế GTGT đối với hàng hóa bán đại lý, thuế GTGT hảng thu mua đại lý. Công ty PI không được khấu trừ thuế GTGT của mặt hàng xăng dầu nêu trên.
Sau đó, Công ty P1 tiếp tục khiếu nại lần 2 đến Tổng Cục trưởng T3. Ngày 11/05/2022, Tổng Cục trưởng T3 có Quyết định Số 722/QĐ-TCT về việc đình chỉ giải quyết một phần khiếu nại về việc Cục thuế Thành phố H xử lý tăng thu nhập khác đối với khoản nợ không ai đòi, số tiền 983.953.846 đồng, và rút nội dung khiếu nại về việc Cục thuế Thành phố H loại khói chi phí lãi vay không được khấu trừ năm 2014, 2015, 2016, 2017 tương ứng với số tiền vay vốn 3.259.380.000 đồng do Công ty P1 có văn bản xin rút các nội dung khiếu nại này. Tại Quyết định số 723/QĐ-TCT ngày 11/05/2022 về việc giải quyết khiếu nại của Công ty P1 (lần thứ hai), có nội dung: căn cứ Điều 15 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 và Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ T4 quy định: T3 cho rằng việc công ty không thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên mà thanh toán bằng hình thức thức nộp tiền mặt trực tiếp vào tải khoản của bên bản không đủ điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT của mặt hàng xăng dầu nêu trên nên không chấp nhận khiếu nại của công ty PI về việc khẩu trừ thuế GTGT. Tại Công văn số 3668/NHNN-TT ngày 20/05/2020 về chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Ngân hàng N1 xác định: "2. Theo nội dung bản sao Hợp đồng dịch vụ số 01/2013/NPL-NHNo3- XNBL, Hợp đồng dịch vụ số 01/2014/XNBL-NHNo3, Công văn số 380/NHN03-KTNQ, Công văn số 99/NHNo3-KTNQ của Ngân hàng N. Chi nhánh 3 (A) và các chủng tử, tài liệu kèm theo Công văn 0123/2020/NPL-GTGT của Công ty Pì cho thấy, A CN3 thu tiền mặt của Công ty PI (bên trả tiền) và sau đó ghi "Cô" vào tài khoản tiền gửi của Xi nghiệp bản lẻ xăng dầu (bên thụ hưởng) mở tại A CN3. Đổi chiều cách thức thực hiện dịch vụ nêu trên với quy định pháp luật về thanh toản không dùng tiền mặt nêu tại Điểm 1 Công văn này cho thấy, việc thanh toán giữa Công ty P1 với Xí nghiệp bản lẻ xăng dầu đã được thực hiện bằng dịch vụ thu hộ, chi hộ của A CN3". Như vậy, Công ty P1 thanh toán cho Xi nghiệp bán lẻ xăng dầu được thực hiện thông qua tổ chức trung gian thanh toán, bằng dịch vụ thu hộ, chỉ hộ của A CN3, là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào và theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về thanh toán. Cụ thể là quy định tại điểm a khoản 6 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1 Điều 4, khoản 3 Điều 14 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng tiền mặt (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 80/2016/NĐ-CP); khoản 6 Điều 3 Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Và đủ điều kiện để được khẩu trừ thuế GTGT của mặt hàng xăng dầu căn cứ Điều 15 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 và Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ T4 cũng như quy định pháp luật chuyên ngành về thanh toán không dùng tiền mặt hiện hành nêu trên. Trong thực tế đã có trường hợp tương tự được giải quyết. Cụ thể: Theo ý kiến của "Đoàn thanh tra tham khảo hướng dẫn tại Công văn số 5058/TCT-CS ngày 30/11/2015 của Tổng cục T3 gửi Cục Thuế tỉnh Đ hướng dẫn về chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với trường hợp tương tự Công ty P1". Trường hợp này đã được giải quyết theo công văn số 2984/TCT-CS ngày 31/8/2016 V/v: Chính sách thuế GTGT của Bộ T4, T3 (đã chấp thuận giải quyết thuế GTGT cho trường hợp D- đóng tại Đồng Nai).... tương tự Công ty P1. Nay Công ty P1 khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy một phần các quyết định (ngoại trừ nội dung xử lý tăng thu nhập khác đối với khoản nợ không ai đói, số tiền 983.953.846 đồng, và nội dung loại khỏi chỉ phí lãi vay không được khấu trừ năm 2014, 2015, 2016, 2017 tương ứng với số tiền vay vốn 3.259.380.000 đồng do Công ty Pì đã rút khiếu nại nên không yêu cầu hủy đổi với các nội dung này): - Hủy một phần Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07/3/2019 của Cục trưởng Cục thuế Thành phố H về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty Cổ phần P1; cụ thể yêu cầu hủy phần truy thu thuế giá trị gia tăng năm 2013 và 2014, hủy phần phạt tiền về hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế và tiền chậm nộp tiền thuế giá trị gia tăng.
- Hủy một phần Quyết định số 04/QĐ-CT-HN ngày 21/01/2020 của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của Công ty Cổ phần PI; cụ thể yêu cầu hủy phần truy thu thuế giá trị gia tăng năm 2013 và 2014, hủy phần phạt tiền về hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế và tiền chậm nộp tiền thuế giá trị gia tăng. - Hủy Quyết định số 723/QĐ-TCT ngày 11/5/2022 của Tổng Cục trưởng Tổng cục T3 về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của Công ty Cổ phần P1. Người bị kiện Cục trưởng Cục thuế Thành phố H có văn bản số 9476/СТТРНСМ-KTNB ngày 02/8/2024 và Văn bản số 12877/CTTPИСМ-KTNB ngày 26/10/2024 trình bày ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện như sau: Công ty P1 hoạt động với Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0302918999 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H cấp lần đầu ngày 22/4/2003, đã đăng ký thay đổi lần thứ 6 ngày 05/9/2017, mã số Thuế: 0302918999. Ngày 03/12/2018, Cục T ban hành Quyết định số 3146/QĐ-CT về việc thanh tra thuế tại Công ty P1, thời kỳ thanh tra từ 2009 đến 2017. Ngày 28/01/2019, Đoàn thanh tra lập Biên bản thanh tra đối với việc thanh tra Công ty P1. Ngày 07/3/2019, Cục T ban hành Quyết định số 1008/QĐ-CT về việc xứ phạt vi phạm hành chính về thuế.
Không đồng ý với Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07/3/2019, Công ty Pl gửi Đơn khiếu nại số 1503/2019/NPL-VAT đề ngày 21/3/2019 khiếu nại Cục Thuế nội dung: Giảm thuế GTGT do hóa đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên, trong đó: Năm 2013: 12.548.765.581 đồng; Năm 2014: 10.015.653.353 đồng. Qua giải quyết khiếu nại lần đầu, nhận thấy: Ngày 09/01/2012, Công ty P1 ký Hợp đồng số 24/HDDL TIT/2012 với Xi nghiệp bán lẻ xăng dầu, về việc giao Công ty P1 làm Đại lý bán lẻ xăng dầu với hình thức đại lý bao tiêu hưởng thủ lao. Theo hợp đồng, tại điều 3 Phương thức thanh toán, hai bên thỏa thuận hình thức thanh toán là chuyển khoản, Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu sau khi nhận được giấy báo có của ngân hàng sẽ lập hóa đơn bán hàng cho Công ty P1. Tuy nhiên ngày 02/01/2013 và ngày 20/12/2014, Công ty P1 ký 02 Hợp đồng với Chi nhánh Ngân hàng N và Xí nghiệp bản lẻ xăng dầu, theo đó hàng ngày Chỉ nhánh Ngân hàng N (sau đây gọi tắt là Chỉ nhánh Ngân hàng) thực hiện thu nhận tiền mặt của Công ty P1 và chuyển lại cho Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu. Các chứng từ giao dịch ngân hàng đều từ Công ty TNHH MTV N2, CN3 chuyển vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của Công ty X. Công ty PI thực hiện điều khoản thanh toán không qua chuyển khoản cho Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu, nhưng cũng không ghi nhận tại Phụ lục hợp đồng. Việc thanh toán này không thực hiện từ tài khoản người bản vào tài khoản người mua. Đoàn thanh tra đã giảm thuế GTGT do hoá đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Căn cứ điểm a, khoản 8 Điều 11 Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ T4 về hướng dẫn thi hành một số điều của luật quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính Phủ quy định: "Điều 11. Khai thuế giả trị gia tăng 8. Hướng dẫn khai thuế giá trị gia tăng, lập bảng kê hóa đơn bán ra, hóa đơn mua vào trong một số trường hợp cụ thể a) Khai thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động đại lý - Người nộp thuế là đại lý bản hàng hóa, dịch vụ hoặc là đại lý thu mua hàng hỏa theo hình thức bản, mua dùng giả hưởng hoa hồng không phải khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ bàn đại lý, hàng hóa thu mua đại lý nhưng phải khai thuế giá trị gia tăng đổi với doanh thu hoa hồng đại lý được hưởng. Hỏa đơn đầu ra, đầu vào của hàng hỏa, địch vụ bản đại lý và hàng hỏa thu mua đại lý được khai trên bảng kê mẫu số 01-1/GTGT và mẫu số 01-2/GTGT, số liệu tổng hợp về hàng hỏa, dịch vụ bản đại lý, hàng hỏa thu mua đại lý trên hai bảng kẻ này không được sử dụng làm căn cứ để lập Tờ khai thuế giá trị gia tăng. - Đối với các hình thức đại lý khác thì người nộp thuế phải khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ bản hàng đại lý, hàng hóa thu mua đại lý và thù lao đại lý được hưởng" Căn cứ Điểm a Khoản 3 Điều 1 Thông tư 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ T4 quy định: "Điều 1. Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ T4 hướng dẫn thi hành một số điều của của Luật Quản lý thuế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ như sau: 3. Sửa đổi, bổ sung điểm a, d, đ và e khoản 8 Điều II Thông tư số 156/2013/TT-BTC như sau: a) Sửa đổi điểm a khoản 8 Điều 11 như sau: "a) Khai thuế giá trị gia tăng đổi với hoạt động đại lý - Người nộp thuế là đại lý bản hàng hỏa, dịch vụ hoặc là đại lý thu mua -hàng hóa theo hình thức bán, mua đùng giả hưởng hoa hồng không phải khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ bán đại lý, hàng hóa thu mua đại lý nhưng phải khai thuế giá trị gia tăng đổi với doanh thu hoa hồng đại lý được hưởng - Người nộp thuế là đại lý bản hàng hóa, dịch vụ hoặc là đại lý thu mua -hàng hỏa theo hình thức bản, mua đùng giả hưởng hoa hồng không phải khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ bàn đại lý, hàng hóa thu mua đại lý nhưng phải khai thuế giá trị gia tăng đối với doanh thu hoa hồng đại lý được hưởng Đối với các hình thức đại lý khác thì người nộp thuế phải khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ bản hàng đại lý, hàng hóa thu mua đại lý và thù lao đại lý được hưởng". Căn cứ các quy định trên, Công ty P1 ký hợp đồng đại lý bao tiêu với Xi nghiệp bán lẻ xăng dầu, thực hiện bán giá xăng theo đúng giá bán lẻ do Xi nghiệp bán lẻ xăng dầu quy định, và được hưởng thủ lao bằng chênh lệch giả Công ty P1 trả tiền cho xí nghiệp XI và giá Công ty P1 bán ra cho người mua lé (giá này được quy định bởi Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu), và được thường thêm theo số lít bán được. Vì vậy, Công ty P1 không khai thuế GTGT đối với hàng hỏa bán đại lý, thuế GTGT hàng thu mua đại lý. Công ty P1 không được khấu trừ thuế GTGT của mặt hàng xăng dầu nêu trên. Vì vậy khiếu nại của Công ty P1 là không có cơ sở. Tử các căn cứ trên, nội dung khiếu nại của Công ty P1 liên quan đến việc giảm thuế GTGT đo hóa đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào tử hai mươi triệu đồng trở lên là sai. Cục T đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 04/QĐ-CT-KN ngày 21/01/2020 về việc giải quyết khiếu nại của Công ty P1, không công nhận nội dung khiếu nại đối với nội dung giảm thuế GTGT do hóa đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên.
Ngày 21/01/2020, Cục T ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 04/QĐ-CT-KN đổi với Công ty P1 không công nhận việc khiếu nại. Không đồng ý, Công ty P1 tiếp tục khiếu nại đến Tổng cục T3. Ngày 11/5/2022, Tổng cục T3 ban hành Quyết định số 723/QĐ-TCT về việc giải quyết khiếu nại lần 2 đối với Công ty Cổ phần P1. Theo kết quả xác minh giải quyết khiếu nại lần đầu của Cục T và giải quyết khiếu nại lần 2 của Tổng cục T3: Ngày 09/01/2012, Công ty P1 ký Hợp đồng số 24/HDĐL/TTT/2012 với Xi nghiệp Bán lẻ Xăng dầu về việc Xí nghiệp Bán lẻ Xăng dầu giao Công ty P1 lám Đại lý bán lẻ xăng dầu với hình thức đại lý bao tiêu hưởng thù lao. Tại Điều 3 Hợp đồng quy định về phương thức thanh toán: 2 bên thỏa thuận hình thức thanh toàn là chuyển khoản, Xí nghiệp Bán lẻ Xăng dầu sau khi nhận được giấy báo có của ngân hàng sẽ lập hóa đơn bán hàng cho Công ty P1. Tuy nhiên, ngày 02/01/2013 và ngày 20/12/2014, Công ty cổ phần P1 ký 2 Hợp đồng với Chỉ nhánh Ngân hàng N và Xí nghiệp Bán lẻ Xăng dầu, theo đó, hàng ngày Chỉ nhánh Ngân hàng N thực hiện thu nhận tiền mặt của Công ty P1 và chuyền lại cho Xi nghiệp Bán lẻ Xăng dầu. Các chứng từ giao dịch ngân hàng đều tử Công ty TNHH MTV N3, CN3 chuyển vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của Công ty X2. Công ty PI thực hiện điều khoản thanh toán không qua chuyển khoản cho Xi nghiệp Bản lề Xăng dầu, nhưng cũng không ghi nhận tại Phụ lục Hợp đồng. Việc thanh toán này không thực hiện từ tài khoản người bán vào tài khoản người mua. Đoàn thanh tra đã giảm khẩu trừ thuế GTGT do hoá đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Căn cứ Điều 15 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 và Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ T4 quy định:
“Điều 15. Điều kiện khẩu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào 1. Có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hưởng dẫn của Bộ T4 áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cả nhân mước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. 2. Có chứng từ thanh toàn không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trù trường hợp tổng giá trị hàng hóa, địch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giả đã có thuế GTGT Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này 3. Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bản (tài khoản của bên mua và tài khoản của bên bản phải là tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế) mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành như séc, ủy nhiệm chỉ hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tin dụng, sim điện thoại (vì điện tử) và các hình thức thanh toàn khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toản từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bản mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân Sẽ tải khoản bên bản nều tài khoản này đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế). a) Các chứng từ bên mua nộp tiền mặt vào tải khoản của bên bản hoặc chứng từ thanh toán theo các hình thức không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành không đủ điều kiện để được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đổi với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên".
Căn cứ các quy định trên, Công ty P1 không thực hiện thanh toản không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên mà thanh toán bằng hình thức nộp tiền mặt trực tiếp vào tài khoản của bên bản nên không đủ điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT của mặt hàng xăng dầu theo Hợp đồng với Xí nghiệp Bản lẻ Xăng dầu. Tử các căn cứ trên, nội dung khiếu nại của Công ty P1 liên quan đến việc giảm khẩu trừ thuế GTGT do hóa đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên là sai. Do đó, Cục T và Tổng cục T3 đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai không công nhận nội dung khiếu nại về việc giảm 9 khẩu trừ thuế GTGT do hỏa đơn mua vào không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên. Ý kiến của Cục Thuế Thành phố H: với kết quả giải quyết khiếu nại nêu trên, Cục T kiến nghị Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh bác đơn khởi kiện của Công ty P1. Người bị kiện Tổng Cục trưởng T3 có văn bản số 230/TCT-PC ngày 31 tháng 01 năm 2024 trình bày ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện như sau: 1. Về phạm vi khởi kiện: Hủy Quyết định 1008/QĐ-CT ngày 07/3/2019 của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H. - Hủy Quyết định 04/QĐ-CT-KN ngày 21/01/2020 của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H. - Hủy Quyết định 723/QĐ-TCT ngày 11/5/2002 của Tổng Cục trưởng Tổng cục T3".
Tuy nhiên, tại Đơn khởi kiện của Công ty Cổ phần P1 ngày 16/06/2022 có nêu: “Công ty cổ phần P1 yêu cầu Tòa án giải quyết, tuyên hủy một phần các quyết định sau (Ngoại trừ nội dung xử lý tăng thu nhập khác đối với khoản nợ không ai đòi, số tiền 938.953.846 đồng, và nội dung loại khỏi chi phí lãi vay không được khấu trừ năm 2014, 2015, 2016, 2017 tương ứng với số tiền vay vốn 3.259.380.000 đồng do Công ty P1 đã rút đơn khiếu nại nên không yêu cầu hủy đổi với các nội dung này)". Như vậy, Công ty P1 không yêu cầu Tòa án tuyên hủy toàn bộ các quyết định hành chính nêu trên. Phạm vi khởi kiện của Công ty P1 chỉ liên quan đến nội dung cơ quan thuế xử lý giám khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT) năm 2013 số tiền 12.548.765.581 đồng, năm 2014 số tiền 10.015.653.353 đồng do Công ty không đáp ứng điều kiện về chứng từ thanh toán đối với hàng hóa dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên. Tại nội dung trình bày chỉ tiết của Đơn khởi kiện, Công ty P1 cũng chỉ nêu căn cứ và lập luận đối với nội dung này. II. Về nội dung khởi kiện của Công ty P1 đổi với việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng. 1. Căn cứ pháp lý a) Quy định pháp luật ngân hàng Điểm a khoản 6 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 đến nay) Khoản 1 Điều 4: Điểm b khoản 1. Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 101/2011/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ quy định về thanh toán không dùng tiền mặt (có hiệu lực từ ngày 26/3/2012) Khoản 1 Điều 20 Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (ban hành kèm theo Quyết định số 226/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước) Căn cứ các quy định trên, dịch vụ thu hộ, chỉ hộ của ngân hàng là một dịch vụ thanh toán mà ngân hàng được cung cấp. Khi cung cấp dịch vụ thu hộ, chỉ hộ nói riêng và các dịch vụ ngân hàng nói chung, Ngân hàng thực hiện bằng các thế thức hình thức khác nhau theo quy định (Séc, ủy nhiệm chỉ, nộp tiền mặt...), có thể được thực hiện qua tài khoản của khách hàng hoặc không qua tài khoản của khách hàng. Hình thức thanh toán nào, chứng từ thanh toán nào được xác định là đủ điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT thì phải căn cứ theo quy định pháp luật về thuế GTGT. Không phải mọi chứng từ thanh toán khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng đều là chứng từ thanh toán qua ngân hàng đáp ứng điều kiện được khấu trừ thuế GTGT. b) Quy định pháp luật thuế giá trị gia tăng: - Điều 15 Thông tư 06/2021/TT-BTC ngày 11/1/2012 của Bộ T4 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT, hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 và Nghị định số 121/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 1/3/2012 đến trước ngày 1/1/2014) hướng dẫn: - Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ T4 hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT (có hiệu lực từ ngày 01/01/2014) hướng dẫn: - Căn cứ các quy định nêu trên, điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng là phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng hoặc được coi là thanh toán qua ngân hàng (từ 01/1/2014 đến nay là phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng hoặc chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác). Trong đó, chứng từ thanh toán qua ngân hàng được pháp luật quy định: "là chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bản mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toàn phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành", "Các chứng từ bên mua nộp tiền mặt vào tải khoản của bên bản hoặc chứng từ thanh toàn theo các hình thức không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành không đủ điều kiện để được khẩu trìr, hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên". Đồng thời, Thông tư 06/2021/TT-BTC quy định các trường hợp cụ thể được coi là thanh toán qua ngân hàng và Thông tư 219/2013/TT-BTC quy định các trường hợp cụ thể được coi là có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, - Qua thanh tra tại Công ty PI và quá trình xác minh giải quyết khiếu nại, Cục thuế Thành phố H và Tổng cục T3 xác định trong năm 2013, 2014: + Công ty P1 là đại lý bán lẻ của Xi nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên theo hợp đồng đại lý bán lẻ xăng dầu số: 24/HĐ ĐL/TTT/2012 ngày 09/01/2012. Trong Hợp đồng, hai bên thỏa thuận thanh toán bằng hình thức chuyển khoản. + Thực tế, Công ty PI cùng Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên và Chi nhánh Ngân hàng N và phát triển nông thôn 3 ký các hợp đồng dịch vụ (số 01/2013/NPL-NHN03-XNBL ngày 02/1/2013 và 01/2014/XNBL-NHNo3 ngày 20/12/2014) và thực hiện thanh toán tiền hàng cho công Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH Một thành viên như sau: hảng ngày, nhân viên của Chi nhánh Ngân hàng N đến thu tiền mặt tại Công ty P1 và chuyển lại cho Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu (Ngân hàng nộp tiền thu được vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TΝΗΗ một thành viên), Ngân hàng được hưởng mức phí theo thỏa thuận đối với hoạt động thu tiền hộ này. Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, trường hợp Công ty P1 thanh toán tiền hàng cho Xi nghiệp bản lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên bằng hình thức nộp tiền mặt cho Chỉ nhánh Ngân hàng N là không đáp ứng điều kiện về chứng từ thanh toán qua ngân hàng theo quy định tại điểm a khoản 2 Thông tư 06/2012/TT-BTC, khoản 3 Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC, không thuộc các trường hợp được coi là thanh toán qua ngân hàng để khấu trừ thuế GTGT đầu vào quy định tại điểm d khoản 2 Điều 15 Thông tư 06/2012/TT-BTC và không thuộc các trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt khác để khẩu trứ thuế GTGT đầu vào quy định tại Khoản 4 Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC. Do đó, công ty không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào của xăng dầu mua của Xí nghiệp bản lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên từ hai mươi triệu đồng trở lên.
Tại Văn bản số 3668/NHNN-TT ngày 20/5/2020 về việc chứng từ thanh toán qua Ngân hàng của Ngân hàng N1 gửi Công ty P1, Ngân hàng N1 chỉ khẳng định "việc thanh toán giữa Công ty P1 với Xi nghiệp bản lẻ xăng dầu đã được thực hiện bằng dịch vụ thu hộ, chỉ hộ của A CN3", không xác định Công ty PI có chứng từ chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tải khoản của bên bản mớ tại các tổ cung ứng dịch vụ thanh toán. Như vậy, Cục thuế Thành phố H và T3 xử lý giảm trừ thuế GTGT năm 2013, 2014 đối với Công ty P1 tại các Quyết định số 1008/QĐ-CP ngày 07/3/2019; Quyết định số 04/QĐ-CT-KN ngày 21/01/2020; Quyết định số 723/QĐ-TCT pháp luật. ngày 11/5/2022 là đúng quy định Tại bản án hành chính sơ thẩm số 16/2024/HC-ST ngày 16/01/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Mình đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 32, khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 116; khoản 1 Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ Luật quản lý Thuế; Căn cứ Luật Khiếu nại; Căn cứ Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ T4 hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT; Căn cứ khoản 1 Điều 4; Điểm b khoản 1, Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 101/2011/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ quy định về thanh toán không dùng tiền mặt, Căn cứ khoản 2 Điều 32 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, Tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần P1. 2. Hủy một phần nội dung tại tiểu mục 6.1 khoản 6 Điều 1 của Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Cục Trưởng Cục Thuế Thành phố H về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Cụ thể hủy các mục sau: - "6.1. Hình thức xử phạt chính Phạt tiền với mức phạt: 2.682.547.902 đồng Trong đó: - Phạt tiền về hành vi khai sai dẫn đến thiểu số tiền thuế: 2.682.547.902 đồng 2. Biện pháp để khắc phục hậu quả: a). Truy thu thuế với số tiền: 26.142.033.261 đồng Trong đó: - Thuế giá trị gia tăng (TMA): 22.817.311.433 đồng b). Số tiền chậm nộp tiền thuế: 18.252.796.549 đồng Trong đó: - Tiền chậm nộp tiền thuế GTGT (T5): 16.931.608.759 đồng 3. Hủy một phần Điều 2 của Quyết định số 04/QĐ-CT-KN ngày 21/01/2020 của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H về việc giải quyết khiếu nại của Công ty cổ phần P1 (lần đầu), cụ thể hủy các mục sau:
“6. Bị áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả như sau: 6.1. Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền với mức phạt: 2.568.143,042 đồng Trong đó: phạt tiền về hành vi khai sai dẫn đến thiều số tiền thuế phải nộp (TM4254): 2.682.547.902 đồng. 6.2. Biện pháp để khắc phục hậu quả: a). Truy thu thuế với số tiền: 25.570.008.961 đồng Trong đó: -Thuế giá trị gia tăng (TMA): 22.817.311.433 đồng b). Số tiền chậm nộp tiền thuế: 18.142.421.796 đồng Trong đó: - Tiền chậm nộp tiền thuế GTGT (T5): 16.931.608.759 đồng 4. Húy Quyết định số 723/QĐ-TCT ngày 11/5/2022 của Tổng cục trưởng Tổng cục T3 về việc giải quyết khiếu nại của Công ty cổ phần P1 (lần hai). Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 15/3/2024, người bị kiện Cục Trưởng Cục Thuế Thành Phố H kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần PI. Ngày 29/01/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ ChíMinh kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hưởng bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần P1. Tại phiên tòa phúc thẩm: Cục Trưởng Cục Thuế Thành phố H vẫn giữ yêu cầu kháng cáo. Người báo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H đề nghị sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện vì Công ty P1 không thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển khoản từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán nên không thuộc trường hợp được khấu trừ thuế GTGT theo quy định của Bộ T4. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Tổng cục trưởng Tổng cục T3 thống nhất với ý kiến của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H, đề nghị sửa bán ản sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện. Công ty P1 đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Cục Trưởng Cục Thuế Thành phố H và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh để nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Cục Trưởng Cục Thuế Thành phố H và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ ChíMình, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Pl.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tỏa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy: [1] Về tố tụng: Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh được ban hành đùng quy định của Luật Tố tụng hành chính; đơn kháng cáo của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H làm trong hạn luật định, là hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị và Cục Thuế Thành phố H kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty P1. Người đại diện theo ủy quyền của những người bị kiện có đơn đề nghị Tòa ản xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những đương sự trên. Việc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý yêu cầu khởi kiện của Công ty P1 là đúng thẩm quyền và trong thời hiệu khởi kiện.
[2] Về nội dung: Về thẩm quyền và trình tự ban hành: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế được ban hành đúng thẩm quyền và trình tự theo quy định tại các khoản 4 Điều 44; Điều 67 Luật xử lý vi phạm hành chính; các quyết định giải quyết khiếu nại được ban hành đúng thẩm quyền và trình tự theo quy định của Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11/11/2011. Cục Thuế Thành phố H và Tổng cục T3 cho rằng Công ty P1 thanh toán tiền hàng cho Xi nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên bằng hình thức nộp tiền mặt cho Chi nhánh Ngân hàng N là không đáp ứng điều kiện về chứng từ thanh toán qua ngân hàng theo quy định tại điểm a khoản 2 Thông tư 06/2012/TT-BTC, khoản 3 Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC, không thuộc các trường hợp được coi là thanh toán qua ngân hàng để khấu trừ thuế GTGT đầu vào quy định tại điểm ở khoản 2 Điều 15 Thông tư 06/2012/TT-BTC và không thuộc các trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt khác để khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo quy định tại Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC. Do đó, Công ty không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với xăng dầu mua của Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu khu vực II TNHH một thành viên từ hai mươi triệu đồng trở lên. Tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng về người nộp thuế, đối tượng không chịu thuế, giá tính thuế, thuế suất, phương pháp tỉnh thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế và nơi nộp thuế như sau: “2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào: a) Có hóa đơn giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng hóa ở khâu nhập khẩu, chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp mua dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này.
b) Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ trường hợp tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần có giả trị dưới 20 triệu đồng. …” Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 và khoản 3 Điều 14 của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt và khoản 5, khoản 6 Điều 3 của Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Ngân hàng N1 hướng dẫn dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt quy định: “Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (sau đây gọi là dịch vụ thanh toán) bao gồm dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán và một số dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng." Trong khi đó, theo Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ T4 hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT hướng dẫn điều kiện khẩu trửthuế giá trị gia tăng đầu vào quy định: 2. Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ trường hợp tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT. Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này. 3. Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tải khoản của bên bán (tài khoản của bên mua và tài khoản của bên bán phải là tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế) mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành như séc, ủy nhiệm chỉ hoặc lệnh chỉ, ủy nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (vi điện tử) và các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bản mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân S1 tài khoản bên bản nếu tài khoản này đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế).". Cân cử Hợp đồng dịch vụ số 01/2013/NPL - NHNo3-XNBL ngày 02/01/2013 và Hợp đồng dịch vụ số 01/2014/XNBL-NHNo3 ngày 20/12/2014 giữa Công ty P1, Xí nghiệp X1 và Ngân hàng N chi nhánh C1 và căn cứ Công văn số 3668/NHNN-TT ngày 20/5/2020 của Ngân hàng Ni có cơ sở xác định việc Công ty P1 thanh toán tiền mua hàng cho Xi nghiệp Bán lẻ xăng dầu thông qua việc Ngân hàng N chỉ nhánh 3 hàng ngày cho nhân viên đến thu tiền mặt và đưa vào tài khoản của bên bán, sau đó báo "Có" trong tải khoản của bên bản là thực hiện dịch vụ thu hộ, chỉ hộ. Việc thu hộ, chỉ hộ này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 4 và khoản 3 Điều 14 của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt và khoản 5, khoản 6 Điều 3 của Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Ngân hàng N1 hướng dẫn dịch vụ thanh toán không đúng tiền mặt. Đối chiếu với Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt và khoản 5, khoản 6 Điều 3 của Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Ngân hàng N1 hướng dẫn dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt thì việc thanh toán của Công ty P1 như trên đủ điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, việc thanh toán này lại không đủ điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng theo quy định tại điểm a khoản 2 Thông tư 06/2012/TT-BTC, khoản 3 Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC của Bộ T4. Theo đó, việc thanh toán không dùng tiền mặt phải thực hiện chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán. Như vậy, quy định hướng dẫn của Bộ T4 có sự khác biệt với quy định tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 và Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ và Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Ngân hàng N1. Đối chiếu với Điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1995 và khoản 2 Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 thì các quy định tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 và Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ được ưu tiên thi hành. Ngoài ra, việc quản lý hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thuộc thẩm quyền quản lý của Ngân hàng N1. Do vậy, việc giải thích xác định các giao dịch nào là giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt thuộc thẩm quyền của Ngân hàng N1 không phải của Bộ T4. Trên cơ sở đó, không có căn cứ xác định Công ty P1 có lỗi trong việc kẻ khai khấu trừ thuế GTGT theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Vì vậy, việc Tổng cục T3 xử phạt vi phạm hành chỉnh và truy thu thuế GTGT tại Quyết định số 1008/QĐ-CT là áp dụng không đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty P1, húy một phần Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Cục Trưởng Cục Thuế Thành phố H theo yêu cầu của người khỏi kiện là có căn cử.
Nội dung Quyết định giải quyết khiếu nại số 04/QĐ-CT-KN ngày 21/01/2020 của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H chỉ điều chỉnh mức tiền phạt, truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và số tiền chậm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền chậm nộp thuế TNCN, còn các khoản thuế, truy thu thuế và buộc nộp số tiền chậm nộp tiền thuế giá trị gia tăng vẫn giữ nguyên. Do Quyết định số 1008/QĐ-CT xác định việc truy thu thuế và phạt đối với những khoản này là không đúng quy định nên Tòa án cấp sơ thẩm hủy một phần Quyết định giải quyết khiếu nại số 04/QĐ-CT-KN tương ứng các mục nêu trên là phù hợp. Nội dung Quyết định số 723/QĐ-TCT ngày 11/5/2022 của Tổng cục trưởng Tổng cục T3 có nội dung: "yêu cầu Cục trưởng cục Thuế Thành phố H sửa đổi một phần Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07/3/2019 về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty cổ phần P1, cụ thể: Công ty P1 thuộc đối tượng kê khai thuế GTGT trong khi Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07/3/2019 đã bị xác định việc truy thu thuế và phạt đối với những khoản nêu trên không đúng nên Tòa án cấp sơ thẩm hủy quyết định này là có cơ sở. Từ những phân tích nêu trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm mới bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty P1 Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện và của Viện kiểm sát nhân dân Thánh phố Hồ Chí Minh không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[3] Về ăn phi phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 692/QĐ-VKS-HC ngày 29/01/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và không chấp nhận kháng cáo của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2024/HC-ST ngày 16/01/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần P1.
2. Hủy một phần nội dung tại tiểu mục 6.1 khoản 6 Điều 1 của Quyết định số 1008/QĐ-CT ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Cục Trưởng Cục Thuế Thành phổ H về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế, cụ thể hủy các mục sau: - “6.1. Hình thức xử phạt chính Phạt tiền với mức phạt: 2.682.547.902 đồng Trong đó: Phạt tiền về hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế: 2.682.547.902 đồng 2. Biện pháp để khắc phục hậu quả: a) Truy thu thuế với số tiền: 26.142.033.261 đồng Trong đó: - Thuế giá trị gia tăng (TM 1701): 22.817.311.433 đồng b) Số tiền chậm nộp tiền thuế: 18.252.796.549 đồng Trong đỏ: - Tiền chậm nộp tiền thuế GTGT (T5): 16.931.608.759 đồng
3. Hủy một phần Điều 2 của Quyết định số 04/QĐ-CT-KN ngày 21/01/2020 của Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H về việc giải quyết khiếu nại của Công ty cổ phần P1 (lần đầu), cụ thể hủy các mục sau: "6. Bị áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả như sau: 6.1. Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền với mức phạt: 2.568.143.042 đồng Trong đó: phạt tiền về hành vi khai sai dẫn đến thiểu số tiền thuế phải nộp (TM4254): 2.682.547.902 đồng. 6.2. Biện pháp để khắc phục hậu quả: a) Truy thu thuế với số tiền: 25.570.008.961 đồng Trong đó: - Thuế giá trị gia tăng (TM 1701): 22.817.311.433 đồng b) Số tiền chậm nộp tiền thuế: 18.142.421.796 đồng Trong đó: Tiền chậm nộp tiền thuế GTGT (T5): 16.931.608.759 đồng
4. Hủy Quyết định số 723/QĐ-TCT ngày 11/5/2022 của Tổng cục trưởng Tổng cục T3 về việc giải quyết khiếu nại của Công ty cổ phần P1 (lần hai).
5. Về án phí phúc thẩm: Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H phải chịu ản phí hành chỉnh phúc thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Được cần trừ với số tiền tạm ứng án phí hành chỉnh phúc thầm mà Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H đã nộp theo Biên lai đông tạm ứng án phí số 0032814 ngày 09/4/2024 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Cục trưởng Cục Thuế Thành phố H đã nộp đủ án phí hành chỉnh phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế (cơ quan thuế và doanh nghiệp hiểu khác nhau về định nghĩa thanh toán không dùng tiền mặt) số 1193/2024/HC-PT
Số hiệu: | 1193/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 11/11/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về