TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 838/2024/HC-PT NGÀY 12/08/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC AN NINH TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
Ngày 12 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 431/2024/TLPT-HC ngày 07 tháng 5 năm 2024 về việc: “Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 12 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2318/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968. Địa chỉ: Ấp Đ, xã H, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ: Ấp X, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện (văn bản ủy quyền ngày 08/01/2024): Ông Trần Văn H – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Người kháng cáo: Người khởi kiện – bà Nguyễn Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện của người khởi kiện của bà Nguyễn Thị L và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa người khởi kiện trình bày như sau:
Vào ngày mùng 9 Tết Nguyên Đán năm 2023 (nhằm ngày 30/01/2023) thiếu tá Nguyễn Thanh T là Trưởng công an xã H cùng 02 người đã xông vào nhà bà (Nhà bà bán quán nước) để bắt các anh ở xóm tụ tập hát karaoke, đánh bài trong quán của bà, họ vui chơi ngày tết vài chục ngàn đồng, bà thì bán nước giải khát cà phê. Là chủ nhà thật nhưng bà không phải chứa bài để lấy sâu và cũng không rủ ai đến để đánh bạc. Khi anh T vào chỉ có 04 người là: Lâm Ngọc Q, Trần Văn Đ, Huỳnh Thiện Đ1, Trương Thị Bích V ngồi chơi bài và uống nước trên sàn gạch chỉ có 40.000 đồng và móc trong túi bà 415.000 đồng, anh T lập biên bản cho bà ký rồi ra về. Sau đó bà bị Ủy ban nhân dân huyện C ra quyết định xử phạt hành chính số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 do Phó chủ tịch Trần Văn H ký xử phạt về hành vi dùng nhà ở, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp đánh bạc. Bà không đồng ý với quyết định số 14/QĐ.XPHC ngày 08/02/2023 với những lý do sau đây:
- Bà không có chứa bài và cũng không có rủ rê để chứa chấp lối xóm tụ tập vui chơi.
- Tiền đánh bạc chỉ có 04 người là: Lâm Ngọc Q, Trần Văn Đ, Huỳnh Thiện Đ1, Trương Thị Bích V. Tiền đánh bạc 40.000 đồng. Nay bà nhận thấy số tiền trên không đủ để UBND huyện ra quyết định xử phạt bà là 9.000.000 đồng. Tiền bà để trong túi buộc tôi móc ra để lập 415.000 đồng vào lúc 18 giờ 35 phút ngày 30/01/2023 (nhằm ngày mùng 9 tết đán năm 2023) cho là tiền thu lợi bất chính từ việc chứa chấp đánh bạc là hoàn toàn sai sự thật, vì bởi từ sáng đến tối là tiền bà bán quán không phải là tiền thu lợi bất chính, Công an xã H lập biên bản cho bà ký vi phạm cũng chưa có lập chính xác tiền và bà vi phạm điều gì mà nay UBND huyện C ra quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023, để buộc bà chấp hành nộp phạt là không đúng pháp luật, thiệt thòi quyền và lợi ích của gia đình bà.
Nay bà yêu cầu: Người khởi kiện yêu cầu hủy quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng về xử phạt vi phạt hành chính đối với bà Nguyễn Thị L. Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện trong quá trình giải quyết vụ án có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt trong và không có văn bản ý kiến trình bày. Tuy nhiên, người bị kiện có nộp các biên bản liên quan đến việc xử lý hành chính đối với bà Nguyễn Thị L như: Biên bản kiểm tra hành chính vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 30/01/2023 do Công an xã H lập tại nhà bà Nguyễn Thị L, Biên bản ghi lời khai vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 30/01/2023, Biên bản vi phạm hành chính ngày 30/01/2023, Tờ trình đề nghị xử phạt vi phạm hành chính ngày 03/02/2023, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023, Đơn xin miễn giảm nộp tiền phạt của bà Nguyễn Thị L, Công văn số:
508/UBND-VP ngày 09/05/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C. Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 03/2024/HC-ST ngày 12/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:
1/ Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Nguyễn Thị L về việc yêu cầu hủy quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng về xử phạt vi phạt hành chính đối với bà Nguyễn Thị L.
2/ Về án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng, phần tiền này được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0011695 ngày 25/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Bà L đã thực hiện xong.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/3/2024, bà Nguyễn Thị L kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 12/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng Tại phiên tòa phúc thẩm, bà bà Nguyễn Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo.
- Bà Nguyễn Thị L trình bày nội dung kháng cáo như sau: Bà vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà. Bà không đồng ý với quyết định số 14/QĐ.XPHC ngày 08/02/2023 với những lý do sau đây:
+ Bà không có chứa bài và cũng không có rủ rê để chứa chấp lối xóm tụ tập vui chơi.
+ Tiền đánh bạc chỉ có 04 người là: Lâm Ngọc Q, Trần Văn Đ, Huỳnh Thiện Đ1, Trương Thị Bích V. Tiền đánh bạc chỉ 40.000 đồng. Số tiền này không đủ để UBND huyện ra quyết định xử phạt bà là 9.000.000 đồng. Số tiền còn lại trong túi bà 415.000 đồng là tiền bà bán quán không phải là tiền thu lợi bất chính. Công an xã H lập biên bản cho bà ký vi phạm cũng chưa có lập chính xác tiền và bà vi phạm điều gì.
- Phía người bị kiện vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm. Tại phần tranh luận: Bà L không có ý kiến gì thêm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:
+ Về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.
+ Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm, người khởi kiện không xuất trình được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của người khởi kiện hợp lệ, trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện:
người khởi kiện – bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số hủy quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng (gọi tắt là Quyết định số 14) về xử phạt vi phạt hành chính đối với bà Nguyễn Thị L. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng đối tượng khởi kiện, thụ lý đúng thẩm quyền và xác định vụ án còn trong thời hiệu khởi kiện theo đúng qui định tại các Điều 3, 30, 32, 116 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng huỷ Quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 .
[3.1] Xét tính hợp pháp - về thẩm quyền ban hành: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 là đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo qui định tại khoản 6 và 8 Điều 29 của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương và Khoản 2 Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành chính.
[3.2] Xét tính hợp pháp - về nội dung của Quyết định hành chính 14/QĐ- XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng .
Theo tài liệu chứng cứ trong hồ sơ phù hợp với biên bản vi phạm hành chính thể hiện khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 30/01/2023, Công an xã H kiểm tra nguồn tin tố giác phát hiện bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1968, cư trú: ấp Đ, xã H, huyện C, Sóc Trăng dùng nhà, chỗ ở để chứa chấp việc đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bài ăn thua bằng tiền có khoảng 04 người cùng tham gia. Lực lượng Công an xã đã đến hiện trường bắt giữ 04 đối tượng gồm: Lâm Ngọc Q, Trần Văn Đ, Huỳnh Thiện Đ1, Trương Thị Bích V. Sau đó, C án xã H lập Biên bản vi phạm hành chính về việc xử phạt vi phạm hành chính số 009/BB-VPHC ngày 30/01/2023 đối với bà L.
[3.3] Căn cứ quy định tại điểm a khoản 2 và điểm b khoản 4 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định hành vi đánh bạc trái phép và hành vi tổ chức đánh bạc: “Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật”; “Dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc” thì hành vi trên của bà L là đánh bạc và dùng nhà, chỗ ở của bà cho 04 người khác thực hiện hành vi đánh bạc. Việc bà L cho rằng ngày Tết chỉ chơi cho vui là không đúng, bởi lẽ ngày tết hay các ngày khác trong năm thì hành vi đánh bạc và hành vi chứa chấp việc đánh bạc đều bị xem là vi phạm pháp luật và tùy mức độ sẽ bị xử lý hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự.
[3.4] Xét việc bà L cho rằng số tiền khi bà bị bắt được lấy ra từ túi của bà không phải là tiền thu lợi bất chính, mà là tiền bà bán quán nước mà có, thấy rằng: Tại Biên bản kiểm tra hành chính ngày 30/01/2023, Công an xã H lập biên bản ghi chi tiết gồm bao nhiêu người chơi, số tiền kiểm tra trên từng người và địa điểm chơi là tại phòng ngủ nhà bà L, bà L đã ký vào biên bản trên. Biên bản kiểm tra hành chính đã ghi chi tiết và bà có đọc và ký vào Biên bản, được xem như bà L đã thừa nhận hành vi được ghi trong biên bản.
[3.5] Tại Biên bản ghi lời khai ngày 30/01/2023 bà L đã khai như sau : “Tôi L xin trình bày địa điểm đánh bài ăn tiền tại nhà tôi tổ chức được hai ngày, do Tôi đứng ra tổ chức và thu tiền sâu, số tiền sâu từ 10.000 đồng (Mười nghìn đồng) đối với mỗi người làm cái (ba ván có thắng). Tổng số tiền tôi sâu của người chơi vào ngày 28/01 và 30/01/2023 là 550.000 đồng (năm trăm năm mươi ngàn đồng). Tôi ngồi thu tiền sâu và tham gia chơi 05 (năm) ván, mỗi ván cược 20.000đ (hai mươi ngàn đồng) và thua số tiền 60.000đồng (sáu mươi ngàn đồng) khi làm cái thua ông Q 60.000đồng (sáu mươi ngàn đồng). Tôi mang trong người số tiền 475.000 đồng (Bốn trăm mười lăm ngàn đồng) để sử dụng vào mục đích đánh bạc, chơi được 05 (năm) ván bài thì bị lực lượng Công an bắt quả tang”. Như vậy, lời khai trên của bà L cũng thừa nhận bà có tổ chức chơi đánh bạc tại nhà bà bị Công an xã H bắt quả tang vào ngày 30/01/2023.
[3.6] Ngoài ra, ngày 30/03/2023 bà L có đơn xin miễn, giảm nộp tiền phạt và đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân H trả lời tại Công văn số 508/UBND-VP ngày 09/05/2023, thì bà L không thuộc đối tượng được giảm, miễn tiền phạt. Điều này cho thấy bà L cũng đã gián tiếp thừa nhận hành vi tổ chức đánh bạc tại nhà và đánh bạc của bà như phân tích.
[4] Từ sự phân tích từ mục [3] đến mục [3.6], có cơ sở xác định Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng được ban hành đúng pháp luật. Bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu của người khởi kiện về việc hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[5] Tại cấp phúc thẩm, phía người khởi kiện không cung cấp được thêm tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện.
[6] Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với chứng cứ và nhận định trên của Hội đồng xét xử, được chấp nhận.
[7] Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[8] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người khởi kiện – bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí hành chính phúc thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện – bà Nguyễn Thị L 2. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 12/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
2.1. Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Nguyễn Thị L về việc yêu cầu hủy quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 08/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng về xử phạt vi phạt hành chính đối với bà Nguyễn Thị L.
2.2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng, phần tiền này được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0011695 ngày 25/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Bà L đã thực hiện xong.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm bà L đã nộp theo biên lai thu số 0002855 ngày 25/3/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. 4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội số 838/2024/HC-PT
Số hiệu: | 838/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 12/08/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về