TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 558/2020/HC-PT NGÀY 21/09/2020 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Trong ngày 21 tháng 09 năm 20120, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 520/2019/TLPT-HC ngày 10 tháng 9 năm 2019 về việc: Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 05/2019/HC-ST ngày 10 tháng 7 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3455/2020/QĐPT-HC ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Chị Nguyễn Thị Kh; cư trú tại: Số nhà 298/4, đường Đồng Văn Cống, phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, (có mặt).
- Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Ông Trần Minh Kh – Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, (có đơn xin xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân: Ông Nguyễn Trường Gi; chức vụ: Phó Chánh văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
- Người kháng cáo: bà Nguyễn Thị Kh; kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 08/9/2016 và quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện chị Nguyễn Thị Kh trình bày: Chị có phần đất thửa 60, tờ bản đồ số 22, diện tích 127,1m2 tọa lạc tại ấp Thành Quới, xã Thành Đông, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long do chị đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo đo đạc thực tế, đất ở diện tích 112,9m2, đất trồng cây lâu năm 14,2m2, trên đất chị xây dựng một căn nhà cấp 4.
Ngày 08/7/2014 chị nhận được Quyết định số 2316/QĐ-UBND ngày 23/6/2014 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân về việc thu hồi 120m2 đất của chị để xây dựng công trình giao thông từ Quốc lộ 54 đến Trung tâm Văn hóa huyện Bình Tân.
Ngày 01/8/2014 chị nhận Quyết định 2460/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân về việc phê duyệt giá trị bồi thường cho chị, đất thổ cư giá 1.200.000 đồng/m2, đất trồng cây lâu năm (vị trí 4): 70.000 đồng/m2.
Sau đó, chị Khiếu nại đề nghị tính lại giá bồi thường đất ở, yêu cầu được cấp nền tái định cư có vị trí và diện tích đất tương đương. Trường hợp không được cấp nền tái định cư thì phải nâng giá trị bồi thường theo giá thị trường để chị có thể nhận chuyển nhượng phần đất khác.
Ngày 22/12/2014 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân đã ban hành Quyết định số 4883/QĐ-UBND không chấp nhận đơn Khiếu nại của chị. Chị tiếp tục Khiếu nại.
Ngày 20/8/2015 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1501/QĐ-UBND không chấp nhận Khiếu nại của chị và giữ nguyên quyết định giải quyết Khiếu nại của Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân.
Ngày 28/5/2019 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân đã ban hành Quyết định số 1098/QĐ-UBND phê duyệt bổ sung giá trị hỗ trợ tái định cư phân tán 50.000.000 đồng, hỗ trợ di chuyển chỗ ở và thuê nhà 6.000.000 đồng cho chị.
Chị không đồng ý với các quyết định nói trên và khởi kiện yêu cầu:
- Hủy một phần Quyết định số 4883/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 và Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 28/5/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
- Hủy một phần Quyết định số 1501/QĐ-UBND ngày 20/8/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
- Chị yêu cầu cấp nền tái định cư có vị trí tương đương với đất bị thu hồi. Trường hợp không bố trí nền tái định cư thì phải bồi thường cho chị giá đất theo giá thị trường để chị nhận chuyển nhượng được 120m2 đất.
Tại Công văn số 598/UBND ngày 20/7/2017 và quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân trình bày: Căn cứ Khoản 1 Điều 38 Quyết định số 20/2009/QĐ- UBND ngày 05/11/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long quy định: “Hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi thì được bố trí tái định cư.” Hộ chị Nguyễn Thị Kh bị giải tỏa nhà, thu hồi đất nhưng không phải di chuyển chỗ ở vì chị Kh đang cư ngụ tại số 162/31, đường Trần Quang Diệu, phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Do đó, việc chị Kh yêu cầu cấp nền tái định cư là không có cơ sở xem xét.
Về bồi thường giá trị đất căn cứ Quyết định số 11/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long quy định giá các loại đất năm 2014 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long thì vị trí đất của chị Nguyễn Thị Kh là đất thổ cư đường huyện lộ 80, đoạn từ giáp Quốc lộ 54 đến cầu Ngã Cạn, quy định được bồi thường như sau:
Đất thổ cư (vị trí 1): 1.200.000 đồng/m2 x 112,9 m2 = 135.480.000 đồng. Đất trồng cây lâu năm (vị trí 4): 70.000 đồng/m2 x 7,1m2 = 497.000 đồng. Việc thu hồi đất, áp giá bồi thường Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân đã thực hiện đúng với các quy định của pháp luật về đất đai. Việc chị Kh yêu cầu cấp nền tái định cư cho chị vị trí tương đương với đất bị thu hồi, trường hợp không bố trí tái định cư, phải bồi thường theo giá thị trường 7.300.000 đồng/m2, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Kh, giữ nguyên Quyết định giải quyết Khiếu nại số 4883/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 và Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 28/5/2019.
Tại Công văn số 2501/UBND – NC ngày 28/6/2017 và quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long trình bày: Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình đường từ Quốc lộ 54 đến Trung tâm Văn Hóa huyện Bình Tân là đúng theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 và Khoản 1 Điều 28 Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng- an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long (ban hành kèm theo Quyết định số 20/2009/QĐ- UBND ngày 05/11/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long). Căn cứ Khoản 2 Điều 21 Luật Khiếu nại năm 2011, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1501/QĐ-UBND ngày 20/8/2015 không chấp nhận đơn Khiếu nại của chị Kh là đúng quy định của pháp luật. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long vẫn bảo lưu Quyết định giải quyết Khiếu nại số 1501/QĐ-UBND ngày 20/8/2015.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 05/2019/HCST ngày 10 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định:
Áp dụng Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12, 14, 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bác yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kh Kh kiện Quyết định số 4883/QĐ- UBND ngày 22/12/2014, Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 28/5/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long và Quyết định số 1501/QĐ-UBND ngày 20/8/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc: Yêu cầu cấp nền đất tái định cư có vị trí tương đương với đất bị thu hồi hoặc bồi thường trị giá đất bị thu hồi theo giá thị trường.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22 tháng 7 năm 2019, người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Kh có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án hành chính sơ thẩm.
Ngày 09 tháng 8 năm 2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị số 32/QĐKNPT-VKS-HC với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng khoản 3 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015 hủy bản án hành chính sơ thẩm để xét xử lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm: bà Nguyễn Thị Kh vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện UBND tỉnh Vĩnh Long – ông Trần Minh Kh và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện UBND huyện Bình Tân - ông Nguyễn Trường Gi đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án hành chính phúc thẩm.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, kháng nghị của Viện kiểm sát và hủy bản án số 05/2019/HC-ST ngày 10/7/2019 về việc Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý đất đai của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Viện kiểm sát, của người khởi kiện, người bị kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về hình thức đơn kháng cáo của người khởi kiện trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
1. Ngày 22/7/2019 người khởi kiện bà Nguyễn Thị Kh kháng cáo án sơ thẩm số 05/2019/HC-ST ngày 10/7/2019 về việc Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý đất đai của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
2. Ngày 09/8/2019 Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án hành chính số 05/2019/HC-ST ngày 10/7/2019 về việc Kh kiện Quyết định hành chính trong quản lý đất đai của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Đối chiếu với bản án sơ thẩm đã xét xử thì thấy:
[1] Về đối tượng khởi kiện: cấp sơ thẩm xác định đối tượng khởi kiện là quyết định số 4883/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long về việc giải quyết Khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kh; Quyết định số 1501/QĐ-UBND ngày 20/8/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc giải quyết Khiếu nại lần 2 của bà Nguyễn Thị Kh; Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 28/5/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt bổ sung giá trị hỗ trợ cho hộ bà Nguyễn Thị Kh, là phù hợp theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
[2] Về thời hiệu khởi kiện: Căn cứ Điều 116 Luật tố tụng hành chính cấp sơ thẩm xác định các quyết định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính còn thời hiệu là phù hợp.
[3] Xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thì thấy đúng thẩm quyền ban hành văn bản.
[4] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị Kh quản lý và sử dụng 127,1m2 đất tọa lạc tại ấp Thành Quới, xã Thành Đông, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, được Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 726989 ngày 01/4/2011, trong đó có 112,9m2 đất ở và 14,2m2 đất trồng cây lâu năm. Thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường từ Quốc lộ 54 đến Trung tâm văn hóa huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long, Ủy ban nhân dân dân huyện Bình Tân đã ban hành quyết định thu hồi 120m2 đất của bà Kh và bồi thường, hỗ trợ cho bà số tiền 502.279.962 đồng.
Biên bản xét duyệt bố trí tái định cư ngày 09/01/2014 của Ủy ban nhân dân xã Thành Đông và biên bản thông qua phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Bình Tân xác định bà Kh thuộc trường hợp không xét cấp tái định cư do có nhà và hộ khẩu ở thành phố Cần Thơ. Bà Kh có đơn Khiếu nại về việc không được xem xét cấp tái định cư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân đã giải quyết Khiếu nại lần đầu số 4883/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 có nội dung: “Hộ bà Nguyễn Thị Kh bị thu hồi đất nhưng không phải di chuyển chỗ ở vì bà Kh hiện đang cư ngụ tại số162/31 Trần Quang Diệu, phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ nên yêu cầu của bà không có cơ sở để xem xét”. Không đồng ý bà Kh tiếp tục Khiếu nại lần 2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành quyết định giải quyết Khiếu nại lần 2 không chấp nhận Khiếu nại của bà Kh, giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Bà Kh khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định giải quyết khiếu nại và được bố trí nền tái định cư hoặc bồi thường theo giá thị trường để tự nhận chuyển nhượng đất ở bằng diện tích đã thu hồi.
Trong quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm nhận định: Quyết định giải quyết Khiếu nại lần đầu (QĐ 4883) và quyết định giải quyết Khiếu nại lần hai (QĐ 1501) có nội dung không chấp nhận yêu cầu bố trí nền tái định cư cho bà Kh là trái quy định nhưng mặt khác lại nhận định bà Kh đã có chỗ ở khác và Dự án không bố trí tái định cư tại chỗ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân đã ban hành quyết định hỗ trợ tái định cư phân tán số 1098/QĐ-UBND cho hộ bà Kh là đúng nên bác bác yêu cầu khởi kiện của bà Kh. Việc nhận định của cấp sơ thẩm có sự mâu thuẫn thiếu nhất quán trong cùng một nội dung.
[5] Nhận định của Tòa án: xét thấy, cấp sơ thẩm xét xử chưa đúng theo quy định của pháp luật:
Thứ nhất, án sơ thẩm nhận định Dự án không có bố trí tái định cư tại chỗ là không đúng, vì tại mục 8, Điều 1, Quyết định số 1255/QĐ-UBND ngày 26/7/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long và Mục 2 Thông báo số 64/TB- UBND ngày 12/8/2013 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân đều thể hiện dự án này có kế hoạch tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Đồng thời căn cứ khoản 1 Điều 18 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và khoản 1 Điều 38 Quyết định số 20/2009/QĐ-UBND ngày 05/11/2009 của Ủy ban nhân tỉnh Vĩnh Long đều quy định: “Hộ gia đình, cá nhân khi bị nhà nước thu hồi đất ở thì được bố trí tái định cư trong các trường hợp sau: Hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu tái định cư)”. Tại điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cũng quy định: “Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích còn lại sau khi thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân, không còn đất ở, chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi, thì được bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư”.
Trong thực tế đã triển khai tái định cư cho những hộ có đất bị thu hồi thông qua biên bản xét duyệt bố trí ngày 09/01/2014 của Ủy ban nhân dân xã Thành Đông và Biên bản thông qua phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ngày 21/4/2014 của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Bình Tân. Tại biên bản này xác định hộ bà Kh và bà Nguyễn Thị Ánh Ng không đủ điều kiện bố trí tái định cư nhưng sau đó bà Ng được bố trí một nền tái định cư 90m2 theo quyết định số 4227/QĐ-UBND ngày 02/10/2015 của ủy ban nhân dân huyện Bình Tân. Do việc bố trí của Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân không đúng pháp luật nên dẫn đến việc Khiếu nại kéo dài làm mất niềm tin của người dân đối với chính quyền địa phương.
Thứ hai, đối với quyết định số 1098/QĐ-UBND về việc hỗ trợ bổ sung cho bà Kh, án sơ thẩm cũng nhận định nội dung quyết định này là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu bố trí tái định cư cho người khởi kiện. Tuy nhiên, theo nội dung của quyết định này hỗ trợ bổ sung cho bà Kh gồm: tiền di chuyển chỗ ở và tiền thuê nhà, điều này đồng nghĩa là chấp nhận một phần Khiếu nại của bà Kh từ năm 2014. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng quyết định này là đúng pháp luật là chưa phù hợp.
Xét thấy, Dự án đường từ QL 54 đến Trung tâm văn hóa huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long có cấp nền tái định cư cho người có đất bị thu hồi và bà Nguyễn Thị Kh mong muốn được cấp nền tái định cư như những hộ khác bị thu hồi đất trong dự án này nhưng các quyết định giải quyết Khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đều không chấp nhận yêu cầu của bà Kh là không đúng. Do đó, cần phải hủy các quyết định giải quyết Khiếu nại và quyết định hỗ trợ tái định cư bổ sung và giao cho Ủy ban nhân dân có thẩm quyền ban hành quyết định cấp nền tái định cư cho bà Nguyễn Thị Kh.
Tại phiên tòa ngày hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị hủy bản án hành chính sơ thẩm là không cần thiết nên không được chấp nhận.
Do kháng cáo của người khởi kiện được chấp nhận nên không phải chịu tiền án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 2 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính năm 2015
Áp dụng Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án
- Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kh;
- Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
1. Sửa bản án hành chính sơ thẩm số 05/2019/HC-ST ngày 10/7/2019 về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý đất đai” của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Hủy các quyết định số 4883/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long về việc giải quyết Khiếu nại của bà Nguyễn Thị Kh; Quyết định số 1501/QĐ-UBND ngày 20/8/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc giải quyết Khiếu nại lần 2 của bà Nguyễn Thị Kh; Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 28/5/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt bổ sung giá trị hỗ trợ cho hộ bà Nguyễn Thị Kh.
Buộc Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân thực hiện chức năng công vụ theo đúng quy định trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai.
2. Về Án phí hành chính:
- Bà Nguyễn Thị Kh không phải chịu án phí hành chính sơ và phúc thẩm.
- UBND huyện huyện Bình Tân phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 558/2020/HC-PT
Số hiệu: | 558/2020/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về