TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 02/2024/HC-PT NGÀY 28/05/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ KINH DOANH
Ngày 28 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh; Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 01/2024/TLPT-HC ngày 15 tháng 02 năm 2024 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXPT-HC ngày 27 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn D, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện: Ông Trương Hồng T, sinh năm 1983. Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 16/8/2023. Có mặt.
Địa chỉ: Số A, Đường A, Khu phố F, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Người bị kiện:
- Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B.
- Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Võ Quốc N - Phó Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B. Theo Văn bản ủy quyền ngày 09/5/2023. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố D, thị trấn C, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân (UBND) xã B, huyện B.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND xã B. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bà Võ Thị V, sinh năm 1983. Có mặt.
- Ông Phạm Hồng C, sinh năm 1985. Có mặt.
- Ông Phạm V1, sinh năm 1967. Vắng mặt không có lý do.
- Ông Trương Công D, sinh năm 1959. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn D, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H, người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung của bà Nguyễn Thị H, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là ông Trương Hồng T trình bày:
Bà Nguyễn Thị H được Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 34C8003783 Đăng ký lần đầu ngày 12/4/2018, Đăng ký thay đổi lần hai ngày 07/5/2019, tên hộ kinh doanh: Cơ sở kinh doanh Minh T1, địa điểm kinh doanh: Thôn F, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; ngành nghề kinh doanh: Sản xuất đồ mộc dân dụng; đại diện hộ kinh doanh: Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; chỗ ở hiện nay: Thôn F, xã B, huyện B.
Ngày 18/6/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B phối hợp với UBND xã B tổ chức buổi kiểm tra tại địa điểm Cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị H về tình hình chấp hành pháp luật trong hoạt động kinh doanh và kết luận hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị H sử dụng địa điểm làm trụ sở kinh doanh trên đất không hợp pháp (đất không phù hợp quy hoạch), kê khai giả mạo.
Ngày 10/12/2021, bà Nguyễn Thị H nhận Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc thu hồi Giấy chứng nhận hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh T1.
Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của Cơ sở kinh doanh Minh T1 là không đúng quy định của pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị H, vì lý do sau:
Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 nêu lý do thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của bà Nguyễn Thị H là: Đăng ký kinh doanh trong giấy đề nghị là kê khai giả mạo và kinh doanh trên đất không phù hợp với quy hoạch, sử dụng đất không đúng mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, việc kê khai trong giấy đề nghị của bà Nguyễn Thị H trung thực, đúng quy định của pháp luật và đúng các ngành nghề đã đăng ký là: Sản xuất đồ mộc dân dụng; cưa xẻ gỗ; vận chuyển hàng hoá bằng xe ô tô; khu vui chơi trẻ em; bán tạp hoá, cà phê, trà sữa, nước giải khát, hàng ăn vặt. Ngoài ra, cũng không có văn bản nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh của bà Nguyễn Thị H là giả mạo nên Thông báo số 03/TB-ĐKKD ngày 21/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B là không đúng. Việc kinh doanh trên đất thì đây là đất mượn theo đúng quy định của pháp luật. Đây cũng không phải là lý do để thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của bà H theo điểm a khoản 1, 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ.
Ngày 20/12/2021, bà Nguyễn Thị H gửi đơn khiếu nại Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 đến Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B. Ngày 31/12/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Công văn số 904/TC-KH không chấp nhận nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị H, khẳng định Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B được ban hành đúng quy định của pháp luật.
Từ khi nhận Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B đã gây hoang mang, ức chế dẫn đến đời sống tinh thần của bà Nguyễn Thị H bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hằng ngày.
Lý do Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B làm căn cứ thu hồi giấy chứng nhận hộ kinh doanh của cơ sở kinh doanh Minh Thư tại Quyết định số 03/QĐ- ĐKKD ngày 25/6/2021 là trái quy định của pháp luật nên bà Nguyễn Thị H yêu cầu Toà án nhân dân huyện Bình Sơn giải quyết:
Hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của cơ sở kinh doanh M.
Hủy Công văn giải quyết khiếu nại số 904/TC-KH, ngày 31/12/2021 của Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B.
Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục hoặc cấp lại giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho bà Nguyễn Thị H theo đúng quy định của pháp luật.
Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà Nguyễn Thị H số tiền 8.000.000 đồng.
* Người bị kiện là Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B và Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện là ông Võ Quốc N trình bày:
Thực hiện Thông báo số 115/TB-UBND ngày 31/5/2021 của UBND huyện B về việc Thông báo kết luận của đồng chí Ngô Văn D1 - Phó Chủ tịch UBND huyện tại cuộc họp bàn xử lý vi phạm của cơ sở đồ gỗ nội thất M, xã B. Ngày 18/6/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B tổ chức buổi làm việc với cơ sở kinh doanh Minh T1 về tình hình chấp hành pháp luật trong hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh cơ sở đồ gỗ nội thất Minh T1. Kết quả làm việc, UBND xã B xác định hộ kinh doanh cơ sở đồ gỗ nội thất Minh T1 sử dụng địa điểm kinh doanh có mục đích sử dụng đất không phải là đất kinh doanh hay đất ở. Cụ thể:
Cơ sở kinh doanh nội thất Minh T1 hiện đang kinh doanh tại thửa đất số 151, 249, 250 tờ bản đồ số 39, xã B là 1.368,53m2, qua kiểm tra thực tế, diện tích đất nằm trong hành lang an toàn giao thông (ATGT) là 939m2, diện tích xây dựng vi phạm hành lang ATGT là 693,53m2. Ngày 11/6/2021, UBND xã B phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra hiện trường công trình xây dựng trái phép của cơ sở đồ gỗ nội thất Minh T1, qua đó xác định tổng diện tích xây dựng vi phạm trái phép là 1.495,12m2 (trong đó sử dụng đất không đúng mục đích 1.181,44m2, chiếm đất hành lang an toàn giao thông Quốc lộ 24C và Tỉnh lộ 621 là 313,68m2.
Từ những cơ sở trên, các thành phần dự họp nhận thấy địa điểm cơ sở kinh doanh đồ gỗ nội thất Minh T1 do bà Nguyễn Thị H đứng tên tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 34C8003783 cấp ngày 07/5/2019 do Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B cấp là không hợp pháp, trái quy định vì sử dụng đất không đúng mục đích và xây dựng trên đất hành lang ATGT. Điều này trái với quy định của pháp luật về kinh doanh, trái với nội dung ghi tại Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh theo mẫu giấy số III-1 kèm theo Thông tư số 01/2021/TT-BKHĐT ngày 16/3/2021 của Bộ K và Đầu tư: “Chủ hộ kinh doanh cam kết địa điểm kinh doanh thuộc quyền sử dụng hợp pháp, sử dụng đúng mục đích theo quy định của pháp luật và chủ hộ kinh doanh chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của nội dung đăng ký”.
Từ kết quả kiểm tra, mức độ vi phạm, căn cứ khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Thông báo số 03/TB-ĐKKD ngày 21/6/2021 về việc vi phạm của hộ kinh doanh thuộc trường hợp phải thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh và ban hành Quyết định số 03/QĐ- ĐKKD ngày 25/6/2021 thu hồi giấy chứng nhận hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh T1.
Ngày 24/12/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B nhận được đơn khiếu nại đề ngày 20/12/2021 của bà Nguyễn Thị H chủ hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh nội thất Minh Thư, khiếu nại Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc thu hồi giấy chứng nhận hộ kinh doanh Cơ sở kinh doanh Minh T1.
Ngày 31/12/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Công văn số 904/TC-KH về việc trả lời đơn của hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh M, nội dung không chấp nhận đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị H. Do đó, Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
Ngày 25/9/2023, Trưởng phòng Tài chính Kế hoạch huyện B đã ban hành Quyết định số 14/QĐ-TCKH về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 03/QĐ- ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính Kế hoạch huyện B về việc thu hồi giấy chứng nhận hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh T1, khôi phục lại Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho Cơ sở kinh doanh Minh T1 và ban hành Quyết định số 15/QĐ-TCKH về việc thu hồi, hủy bỏ Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã B trình bày:
Tại thôn F (trước đây là thôn D), xã B, gia đình bà Nguyễn Thị H có các thửa đất sau: Thửa đất số 213, tờ bản đồ số 40, xã B, diện tích 294m2, loại đất ONT do ông Phạm Hồng C, bà Võ Thị V đứng tên năm 2016, hiện nay đã chuyển nhượng cho ông Võ Văn C1; thửa đất số 182, tờ bản đồ 39 xã B, diện tích 1.436m2 loại đất ONT + BHK do bà Võ Thị V đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nguồn gốc thửa đất do bà Võ Thị V nhận chuyển nhượng năm 2020), hiện nay có nhà ở của vợ chồng ông Phạm Hồng C và bà Võ Thị V (nhà ở mua lại), thửa đất hiện nay có sử dụng để kinh doanh mua bán đồ gỗ; thửa 477, tờ bản đồ 40 xã B, diện tích 3.980m2, loại đất RSX do ông Phạm V1 (chồng bà Nguyễn Thị H) đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa đất này hiện nay có sử dụng làm xưởng để sản xuất đồ gỗ; thửa 250, diện tích 767m2, loại đất BHK và thửa đất 151, diện tích 83m2, loại đất BHK đều cùng tờ bản đồ số 39 xã B, hiện nay chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức nào; thửa đất 249, tờ bản đồ 39 (trước đây là thửa 393, tờ bản đồ 13) xã B, diện tích 1.028m2, loại đất BHK do ông Trương Công D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về tình trạng sử dụng các thửa đất 151, 249, 250 cùng tờ bản đồ số 39 xã B, ông Phạm Hồng C và bà Võ Thị V đã xây dựng công trình trên đất, vi phạm việc sử dụng đất không đúng mục đích vào kinh doanh bán đồ gỗ, mở quán cà phê, dịch vụ giải khát, bán mặt hàng khác, dịch vụ vui chơi trẻ em, hiện nay các cơ quan chức năng đang xử lý. Sau khi đăng ký kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh Thư năm 2018 do bà Nguyễn Thị H đứng tên thì cơ sở kinh doanh Minh T1 do bà Võ Thị V kinh doanh bán đồ gỗ, mở quán cà phê, dịch vụ giải khát, bán mặt hàng khác, dịch vụ vui chơi trẻ em tại các thửa đất trên.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị V, ông Phạm Hồng C trình bày:
Ông bà thống nhất lời trình bày của người khởi kiện. Đối với thửa đất số 249, tờ bản đồ số 39 (trước đây là thửa 393, tờ bản đồ 13) xã B, ông Trương Công D đã chuyển nhượng cho ông bà, có giấy chuyển nhượng viết tay và đã bàn giao đất cho ông bà sử dụng.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Công D trình bày:
Thửa đất 249, tờ bản đồ 39, xã B, diện tích 1.028m2 do ông đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông chưa chuyển nhượng cho ai, hiện nay thửa đất đang bị người khác lấn chiếm, chưa được giải quyết tranh chấp.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 3, Điều 7, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 116, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 164, Điều 191, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 206, Điều 213, khoản 1 Điều 348, Điều 358 và Điều 359 Luật tố tụng hành chính; Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 14, khoản 8 Điều 16, Điều 74, Điều 75, Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp; Khoản 1, khoản 6 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về việc hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B; Hủy Công văn giải quyết khiếu nại số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B; Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục lại giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh T1 cho bà Nguyễn Thị H; Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà Nguyễn Thị H số tiền 8.000.000 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí; chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10/10/2023, bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Sửa bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện giữ nguyên nội dung kháng cáo.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng hành chính; Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị H; sửa một phần bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H: Hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B; Hủy Công văn giải quyết khiếu nại số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B; Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục lại giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh Thư cho bà Nguyễn Thị H.
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà Nguyễn Thị H số tiền 8.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, xem xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngày 27/9/2023, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án. Ngày 10/10/2023, bà Nguyễn Thị H kháng cáo. Xét hình thức, nội dung và thời hạn kháng cáo phù hợp Điều 204, Điều 205, Điều 206 Luật tố tụng hành chính nên được chấp nhận.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; ông Phạm V1 vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đương sự nêu trên.
[3] Ngày 15/6/2022, bà Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B, hủy Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B, buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục hoặc cấp lại giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho bà Nguyễn Thị H và bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà Nguyễn Thị H số tiền 8.000.000 đồng.
Xét thấy, các yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, còn thời hiệu khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Điều 7, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[4] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H:
[4.1] Ngày 18/6/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B lập Biên bản kiểm tra hộ kinh doanh cơ sở sản xuất đồ gỗ M, xác định hộ kinh doanh đang hoạt động tại thửa đất số 393, tờ bản đồ số 13 (nay là thửa 249, tờ bản đồ số 39, xã B), loại đất hàng năm khác, mục đích sử dụng đất không phải là đất sản xuất kinh doanh. Ngày 21/6/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Thông báo số 03/TB-ĐKKD về việc vi phạm của hộ kinh doanh thuộc trường hợp phải thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, cụ thể: vi phạm khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ. Ngày 25/6/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD thu hồi Giấy chứng nhận Đăng ký hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh M; số giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh 34C8003783 do bà Nguyễn Thị H là chủ hộ kinh doanh.
[4.2] Xét Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về thu hồi Giấy chứng nhận Đăng ký hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh Thư, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Căn cứ Biên bản kiểm tra ngày 18/6/2021, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B xác định nội dung vi phạm của cơ sở kinh doanh Minh Thư tại Thông báo số 03/TB-ĐKKD ngày 21/6/2023 là “sử dụng địa điểm làm trụ sở hộ kinh doanh có mục đích sử dụng đất không đúng mục đích sử dụng đất kinh doanh. Hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh T1 vi phạm khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021 ngày 04/01/2021 của Chính phủ”.
Khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ quy định: “Trường hợp nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký thành lập hộ kinh doanh là giả mạo, Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện ra thông báo về hành vi vi phạm của hộ kinh doanh và ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh”. Tuy nhiên, theo nội dung Thông báo số 03/TB- ĐKKD ngày 21/6/2023, vi phạm của cơ sở kinh doanh Minh T1 là sử dụng đất không đúng mục đích, không phải nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh là giả mạo. Vì vậy, đây không phải là căn cứ để thu hồi giấy chứng nhận đăng ký của hộ kinh doanh theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ quy định về đăng ký doanh nghiệp. Đồng thời, nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh M cũng chưa có văn bản xác định, kết luận của cơ quan có thẩm quyền là giả mạo hay không.
Do đó, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của cơ sở kinh doanh Minh T1 là không đúng quy định theo khoản 1, khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.
[4.3] Ngày 20/12/2021, bà Nguyễn Thị H có đơn khiếu nại đối với Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của cơ sở kinh doanh M.
Ngày 31/12/2021, Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Công văn số 904/TC-KH về việc trả lời đơn của hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh M.
Như đã nhận định tại mục [4.2], việc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B ban hành Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của cơ sở kinh doanh Minh T1 là không đúng pháp luật. Do vậy, nội dung Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 xác định Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 đúng quy định tại khoản 1, 2 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ là không đúng pháp luật.
[4.4] Trong thời gian Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn đang xét xử vụ án, ngày 25/9/2023, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B đã ban hành Quyết định số 14/QĐ-TCKH về việc hủy bỏ quyết định thu hồi số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 và khôi phục Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đối với cơ sở kinh doanh M; Quyết định số 15/QĐ-TCKH về việc thu hồi, hủy bỏ Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 về việc trả lời đơn của hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh M. Tuy nhiên tại phiên tòa, người khởi kiện không rút đơn khởi kiện nên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn xét xử theo thủ tục chung là đúng quy định của pháp luật.
Tại phần nhận định của Tòa án, Bản án sơ thẩm nhận định: Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B căn cứ khoản 2 Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ- CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ để xác định vi phạm nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký thành lập hộ kinh doanh của cơ sở kinh doanh Minh T1 là giả mạo là không đúng trình tự, thủ tục và không đúng quy định của pháp luật. Đồng thời khẳng định Quyết định số 14/QĐ-TCKH và Quyết định số 15/QĐ- TCKH cùng ngày 25/9/2023 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền và có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, bản án sơ thẩm cho rằng do Quyết định thu hồi số 03/QĐ- ĐKKD ngày 25/6/2021 và Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 đã bị hủy bỏ, thu hồi nên đối tượng khởi kiện không còn; từ đó tuyên bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H là không đúng quy định tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy kháng cáo của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B và Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B là có căn cứ chấp nhận.
[4.5] Mặc dù ngày 25/9/2023, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B đã ban hành Quyết định số 14/QĐ-TCKH về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi số 03/QĐ- ĐKKD ngày 25/6/2021 và khôi phục Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đối với cơ sở kinh doanh Minh T1 kể từ ngày 25/9/2023. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị H không rút đơn khởi kiện, đồng thời yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B được Hội đồng xét xử chấp nhận; nên yêu cầu của bà Nguyễn Thị H về việc buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh Thư cho bà Nguyễn Thị H cũng được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4.6] Xét yêu cầu buộc bồi thường thiệt hại về tinh thần cho bà Nguyễn Thị H số tiền 8.000.000 đồng:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật tố tụng hành chính: Người khởi kiện…có yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Bà Nguyễn Thị H yêu cầu Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà số tiền 8.000.000đồng nhưng không có tài liệu, giấy tờ chứng minh các thiệt hại mà mình yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại nêu trên của bà Nguyễn Thị H.
[5] Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng hủy Quyết định số 03/QĐ-ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B, hủy Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc trả lời đơn của cơ sở kinh doanh M, buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho cơ sở kinh doanh Minh T1.
[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật.
[7] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Bà Nguyễn Thị H đã nộp tạm ứng số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.000.000đồng (đã chi phí xong). Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H được Tòa án chấp nhận nên theo quy định tại khoản 1 Điều 358 Luật tố tụng hành chính, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B và Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
[8] Về án phí:
- Án phí hành chính sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003337 ngày 08/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (do bà Tiêu Thị P nộp thay).
Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm; Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001344 ngày 16/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (do bà Tiêu Thị P nộp thay).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 7, khoản 1 Điều 30, khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 116, khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 193, Điều 348, Điều 349, Điều 358, Điều 359 Luật tố tụng hành chính; khoản 8 Điều 16, Điều 93 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
- Hủy Quyết định số 03/QĐ–ĐKKD ngày 25/6/2021 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh của Cơ sở kinh doanh M;
- Hủy Công văn số 904/TC-KH ngày 31/12/2021 của Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B về việc trả lời đơn của hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh M.
- Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B khôi phục Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cơ sở kinh doanh Minh Thư cho bà Nguyễn Thị H theo quy định của pháp luật.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà Nguyễn Thị H số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).
3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Bà Nguyễn Thị H đã nộp tạm ứng số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.000.000đồng (đã chi phí xong). Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B và Trưởng Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện B có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền 2.000.000đồng (Hai triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
4. Về án phí:
- Án phí hành chính sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003337 ngày 08/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (do bà Tiêu Thị P nộp thay).
Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm; Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001344 ngày 16/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (do bà Tiêu Thị P nộp thay).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh số 02/2024/HC-PT
Số hiệu: | 02/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 28/05/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về