TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 197/2024/HC-PT NGÀY 01/04/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH
Ngày 01 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hành chính thụ lý số 918/2023/TLPT-HC ngày 25 tháng 12 năm 2023 do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2023/HC-ST ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3252/2024/QĐ- PT ngày 19 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Ông Lò Văn H (tên gọi khác: Lò Văn H1), sinh năm : 1959; Địa chỉ: Bản B, xã N, huyện T, tỉnh Sơn La.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La.
Do ông Hoàng Quốc K, chức vụ : Chủ tịch tham gia tố tụng. Xin vắng mặt tại phiên tòa.
2. Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Sơn La. Do ông Nguyễn Tuấn A, chức vụ: Giám đốc tham gia tố tụng. Xin vắng mặt tại phiên tòa.
Đều có địa chỉ tại: Trung tâm hành chính tỉnh S, tổ G, phường T, thành phố S, tỉnh Sơn La.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện ông Lò Văn H (tên gọi khác Lò Văn H1) trình bày:
Tháng 3/1979, ông Lò Văn H nhập ngũ và đóng quân tại tỉnh Hà Giang, cho đến tháng 8/1989, ông được nghỉ và hưởng chế độ bệnh binh hạng 2/3 theo Quyết định số 8920/HBg ngày 01/8/1989 của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La. Sau khi về địa phương, ông H tiếp tục tham gia công tác tại xã C, huyện T, quá trình công tác của ông H như sau: Từ tháng 6/1990 đến tháng 9/2000, là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Phó Bí thư Đảng ủy xã; Từ tháng 10/2000 đến tháng 12/2000, không tham gia công tác; Từ tháng 01/2001 đến tháng 3/2012, là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã; Từ ngày 01/4/2012 đến ngày 31/5/2021 nghỉ việc chờ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH); ông H được hưởng chế độ hưu trí từ ngày 01/6/2021 (theo Quyết định số 470/QĐ-BHXH ngày 01/7/2021 của BHXH tỉnh Sơn La).
Ngày 09/9/2022, Giám đốc Sở L (sau đây viết tắt là Giám đốc SLĐTBXH) tỉnh Sơn La ban hành Quyết định số 4010/QĐ-SLĐTBXH (Quyết định số 4010) về chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh và truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H (Lò Văn H1) kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 30/6/2021, cụ thể tổng số tháng hưởng không đúng quy định là: 210 tháng = 86.490.000 đồng.
Ngày 13/10/2022, Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 4520/QĐ- SLĐTBXH đính chính nội dung tại Quyết định số 4010 (Quyết định số 4520) và quyết định truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H (Lò Văn H1) kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/7/2021, cụ thể tổng số tháng hưởng không đúng quy định là: 101 tháng = 17.845.000 đồng.
Không nhất trí với việc chấm dứt và truy thu phụ cấp khu vực đối với bệnh binh, ngày 28/11/2022, ông đã làm đơn khiếu nại đến Giám đốc SLĐTBXH đối với 02 quyết định nêu trên.
Ngày 13/01/2023, Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 227/QĐ- SLĐTBXH (Quyết định số 227) giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần đầu) đã không chấp nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông và giữ nguyên nội dung Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520 đã ban hành.
Không nhất trí với Quyết định số 227 về giải quyết khiếu nại lần đầu, ông H đã có đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (Chủ tịch UBND tỉnh).
Tại Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh (Quyết định số 617) về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai), kết luận khiếu nại của ông Lò Văn H đúng một phần. Trên cơ sở Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh, Giám đốc SLĐTBXH đã ban hành Quyết định số 2223/QĐ-SLĐTBXH ngày 16/5/2023 (Quyết định số 2223) về việc đình chỉ Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520.
Ông H cho rằng các quyết định trên ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông. Ngày 08/6/2023, ông đã có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử, hủy bỏ:
- Khoản 2.1 Điều 2 Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai).
- Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 2223/QĐ-SLĐTBXH ngày 16/5/2023 của Giám đốc SLĐTBXH về truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông đã được hưởng.
Tại Văn bản số 2753/UBND-NC ngày 20/7/2023 và các tài liệu chứng kèm theo, người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh nêu ý kiến như sau:
Ngày 30/01/2023, Chủ tịch UBND tỉnh nhận được đơn khiếu nại của ông Lò Văn H với nội dung: Khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Giám đốc SLĐTBXH, chấm dứt chế độ trợ cấp khu vực đối với bệnh binh, truy thu phụ cấp khu vực của ông hưởng từ ngày 01/01/2001 đến ngày 30/6/2021 không đúng quy định. Ông H cho rằng ông phải được hưởng phụ cấp khu vực ở một trong hai chế độ: bệnh binh hoặc chế độ hưu cán bộ xã.
Trên cơ sở xác minh nội dung khiếu nại, căn cứ kết quả xác minh về quá trình tham gia công tác, việc chi trả phụ cấp khu vực cùng kỳ lương hàng tháng của cán bộ cấp xã, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, căn cứ pháp lý áp dụng để chấm dứt và truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với thương binh ông Lò Văn H. Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 617 giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai) và kết luận: Khiếu nại của ông H đúng một phần.
Chủ tịch UBND tỉnh đã yêu cầu Giám đốc SLĐTBXH ban hành quyết định đình chỉ đối với Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520, đồng thời sửa đổi bổ sung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu để đảm bảo quyền lợi cho ông H theo đúng quy định.
Tại Văn bản số 1152/SLĐTBXH-TTr ngày 21/7/2023 và các tài liệu chứng cứ kèm theo, người bị kiện Giám đốc SLĐTBXH nêu ý kiến như sau:
Quá trình chi trả phụ cấp khu vực đối với thương binh, bệnh binh trên địa bàn tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Sơn La phát hiện có trường hợp thương binh, bệnh binh là người hưởng trợ cấp hàng tháng, đồng thời là người hưởng lương, chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH). Ngay sau khi phát hiện trường hợp thương binh, bệnh binh được chi trả chế độ phụ cấp khu vực (PCKV) không đúng với quy định, Giám đốc SLĐTBXH đã có văn bản xin ý kiến Bộ L1; tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với các đối tượng có liên quan và ban hành quyết định chấm dứt, truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với các trường hợp thương binh, bệnh binh được hưởng trợ cấp hàng tháng, đồng thời là người được hưởng lương, hưởng chế độ BHXH, trong đó Giám đốc SLĐTBXH đã ban hành Quyết định số 4010 về chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh và truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 30/6/2021 với tổng số tháng hưởng không đúng quy định là 210 tháng, tổng số tiền truy thu là 86.490.000₫; Ngày 13/10/2022, Giám đốc SLĐTBXH đã ban hành Quyết định số 4520 về việc đính chính nội dung tại Quyết định số 4010, theo đó truy thu phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/7/2021 với tổng số tháng hưởng không đúng quy định là 110 tháng, tổng số tiền truy thu là 17.845.000đ.
Ngày 28/11/2022, Sở LĐTBXH nhận được đơn khiếu nại của ông Lò Văn H không nhất trí với các quyết định của Giám đốc SLĐTBXH về việc chấm dứt và truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bản thân ông.
Sở LĐTBXH đã phối hợp với các đơn vị có liên quan thành lập Đoàn xác minh đối với nội dung khiếu nại của ông Lò Văn H. Kết quả xác minh xác định: Từ tháng 6/1990 đến tháng 3/2012, ông H là bệnh binh hưởng trợ cấp hàng tháng, trong thời gian là cán bộ xã (là người hưởng lương, sinh hoạt phí) và thời gian nghỉ hưu, mất sức (hưởng chế độ BHXH), không thuộc chế độ phụ cấp khu vực đối với thương binh, bệnh binh. Trên cơ sở đó ngày 13/01/2023 Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 227 về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H2 (lần đầu), đã quyết định: Giữ nguyên Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520 đã ban hành. Không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Giám đốc SLĐTBXH, ông H tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh. Ngày 24/4/2023, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 617 về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai).
Thực hiện Quyết định số 617 của Chủ tịch UBND tỉnh; căn cứ Luật Khiếu nại số tố cáo năm 2011, Nghị định số 124/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ, Giám đốc SLĐTBXH đã ban hành Quyết định số 2703/QĐ-SLĐTBXH ngày 05/6/20023 (Quyết định số 2703) về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 227/QĐ-SLĐTBXH ngày 13/01/2023, cụ thể: “Ông H là bệnh binh hưởng trợ cấp hàng tháng, trong thời gian là cán bộ xã (là người hưởng lương) và thời gian nghỉ hưu (hưởng chế độ BHXH), không thuộc đối tượng được hưởng PCKV đối với bệnh binh. Do đó, việc chấm dứt chế độ PCKV đối với ông H là đúng quy định của nhà nước về chế độ PCKV và được thực hiện từ thời điểm phát hiện việc hưởng sai chế độ”. Căn cứ Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã phường thị trấn; Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995; Thông tư 03/2001/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 18/01/2001; Thông tư 11/2005/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 05/01/2005 của Bộ L1, Bộ T, Ủy ban D và Miền núi hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp khu vực; Quyết định số 617 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai), Giám đốc SLĐTBXH đã ban hành Quyết định số 2223 về việc đình chỉ Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520.Tại khoản 2 và 3 Điều 2 của Quyết định 2223 đã nêu: “Thực hiện truy thu phụ: đối với bệnh binh từ ngày 06/11/2003 đến ngày 30/3/2012 (lý do: ông Lò Văn H không thuộc đối tượng hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh do ông H là cán bộ chuyên trách cấp xã hưởng lương từ ngân sách nhà nước; truy thu phụ cấp khu vực đối với bệnh binh từ ngày 01/6/2021 đến ngày 01/7/2021 (lý do: ông Lò Văn H không thuộc đối tượng hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh do ông H là đối tượng hưởng chế độ BHXH); không thực hiện truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh từ ngày 01/4/2012 đến ngày 31/5/2021 (Lý do: ông Lò Văn H đã nghỉ công tác và chưa được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội) do đó ông Lò Văn H được hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh là đúng quy định”.
Việc ban hành các quyết định nêu trên của Giám đốc SLĐTBXH đã thực hiện đúng theo hướng dẫn và quy định của Nhà nước về chế độ chính sách đối với người có công và người hưởng lương tại cấp xã, phường, thị trấn. Do đó, không nhất trí với nội dung khởi kiện của ông Lò Văn H, đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2023/HC-ST ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã quyết định: Căn cứ vào Điều 30, khoản 3 Điều 32, khoản 3 Điều 60, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 3 Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính 2015; Luật Khiếu nại 2011, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Mục 2 Thông tư 03/2001/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 18/01/2001; khoản 8 Mục I Thông tư 11/2005/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 05/01/2005 của Bộ L1, Bộ T, Ủy ban D và Miền núi; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 2, điểm b, c khoản 1 Điều 4 Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ; Pháp lệnh số: 02/2020/UBNTVQH14, ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ưu đã người có công với cách mạng; Thông tư số 44/2022/TT-BTC ngày 21/7/2022 của Bộ T Quy định quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng và người trực tiếp tham gia kháng chiến do ngành Lao đông – Thương binh và Xã hội quản lý; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Lò Văn H.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/9/2023 người khởi kiện là ông Lò Văn H làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm (Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La nhận đơn do ông Lò Văn H nộp trực tiếp ngày 03/10/2023).
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Về quá trình thời gian công tác, các chức vụ đảm nhiệm và các chế độ tiền lương, phụ cấp…đã được hưởng như bản án sơ thẩm nêu là đúng. Người khởi kiện không có tài liệu nào khác cung cấp cho Tòa án, cũng như các nội dung trình bày đề nghị nào khác mà vẫn giữ nguyên các ý kiến như đã trình bày tại Tòa án tỉnh Sơn La. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho người khởi kiện vì đã có quá trình làm việc, cống hiến cho địa phương theo chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước.
- Do người bị kiện xin vắng mặt nên không tiến hành tranh tụng giữa các đương sự tại phiên tòa được.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Về tố tụng: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến phiên tòa, Thẩm phán - Chủ tọa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính; những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Về quan điểm giải quyết vụ án: sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung kháng cáo của người khởi kiện là không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, Điều 241-Luật Tố tụng hành chính bác kháng cáo của ông Lò Văn H, giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2023/HC- ST ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Lò Văn H do là người cao tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về tính hợp pháp của "27" \o "đương"đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Lò Văn H được nộp trong thời hạn quy định của pháp luật nên đủ điều kiện để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự:
Tòa án đã thực hiện việc triệu tập hợp lệ đối với các đương sự, tại phiên tòa, người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh, Giám đốc Sở L vắng mặt, nhưng đã có văn bản xin vắng mặt. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện theo quy định tại khoản 4, Điều 225 Luật Tố tụng hành chính 2015.
[2] Xét kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của ông Lò Văn H, Hội đồng xét xử thấy: [2.1] Về thời hiệu, chủ thể khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:
- Ngày 09/9/2022, Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La ban hành Quyết định số 4010 về chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh đối với ông Lò Văn H, ngày 13/10/2022, Giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh Sơn La ban hành Quyết định số 4520 đính chính nội dung tại Quyết định số 4010. Do không nhất trí nên ông Lò Văn H đã có đơn khiếu nại đối với hai quyết định trên.
- Ngày 13/01/2023, Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La đã ban hành Quyết định số 227 về giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần đầu), đã không chấp nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông H và giữ nguyên nội dung Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520. Do đó ông Lò Văn H đã khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La.
- Ngày 24/4/2023 Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La đã ban hành Quyết định số 617 về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai), đã kết luận khiếu nại của ông Lò Văn H đúng một phần.
- Ngày 16/5/2023 Giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh Sơn La đã ban hành Quyết định số 2223 về việc đình chỉ Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520, tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 2223 có nội dung thực hiện việc truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H đã được hưởng.
Không nhất trí với nội dung giải quyết của Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La tại các quyết định nêu trên, ngày 08/6/2023, ông Lò Văn H có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La yêu cầu hủy bỏ một phần các quyết định nêu trên.
Xét thời gian từ khi ban hành các quyết định hành chính trên đến khi ông Lò Văn H nộp đơn khởi kiện ra Tòa án còn trong thời hạn 01 năm. Do đó Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Lò Văn H là đảm bảo về thời hiệu khởi kiện và đúng chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 116 và khoản 1, Điều 115-Luật Tố tụng hành chính; người bị kiện trong vụ án xác định là Giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh Sơn La và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La; Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 3, Điều 32- Luật Tố tụng hành chính là đúng quy định của pháp luật.
[2.2] Về đối tượng và phạm vi khởi kiện:
- Ông Lò Văn H khởi kiện đối với: Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai), Quyết định số 2223/QĐ-SLĐTBXH ngày 16/5/2023 của Giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh Sơn La về việc đình chỉ Quyết định số 4010/QĐ- SLĐTBXH ngày 09/9/2022 và Quyết định số 4520/QĐ-SLĐTBXH ngày 13/10/2022 có nội dung truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông đã được hưởng. Cụ thể, ông H đề nghị Tòa án giải quyết, hủy bỏ: Khoản 2.1, Điều 2-Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La và khoản 2, Điều 2-Quyết định số 2223/QĐ-SLĐTBXH ngày 16/5/2023 của Giám đốc Sở LĐTBXH về truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông đã được hưởng. Đề nghị giải quyết cho ông Lò Văn H tiếp tục được hưởng phụ cấp khu vực trong chế độ bệnh binh theo đúng quy định và yêu cầu bên bị kiện phải chịu toàn bộ các chi phí phát sinh trong thời gian ông Lò Văn H đi khiếu kiện.
Quá trình giải quyết vụ án, ngoài yêu cầu hủy bỏ khoản 2, Điều 2-Quyết định số 2223 và hủy bỏ khoản 2.1, Điều 2-Quyết định số 617, ông Lò Văn H bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án hủy bỏ các Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520 với lý do: không nhất trí việc chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực và truy thu chế độ phụ cấp đối với bệnh binh của các văn bản nêu trên đối với ông Lò Văn H. Ngoài ra, ông Lò Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung nào khác. Xét, việc thay đổi, bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông H là tự nguyện, thuộc phạm vi khởi kiện ban đầu và các Quyết định số 4010, 4520 là tiền đề và liên quan đến việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định số 617 và Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 2223. Do đó việc Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La chấp nhận và giải quyết các yêu cầu của ông Lò Văn H theo trình tự, thủ tục của Luật Tố tụng hành chính là đúng quy định của pháp luật.
[2.3] Về quan hệ pháp luật giải quyết:
Ông Lò Văn H khởi kiện yêu cầu hủy bỏ các Quyết định hành chính về việc chấm dứt và truy thu phụ cấp khu vực đối với bệnh binh. Do đó TAND tỉnh Sơn La xác định quan hệ pháp luật là "Khiếu kiện quyết định hành chính trong trong lĩnh vực chế độ, chính sách” là đúng quy định của pháp luật.
[2.4] Về các quyết định hành chính có liên quan:
Trong vụ án này, còn có các quyết định do Giám đốc Sở LĐTBXH ban hành gồm: Quyết định số 227/QĐ-SLĐTBXH ngày 13/01/2023 về giải quyết khiếu nại lần đầu; Quyết định số 2703/QĐ-SLĐTBXH ngày 05/6/2023 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 227/QĐ-SLĐTBXH ngày 13/01/2023. Mặc dù ông Lò Văn H không khởi kiện các quyết định này, tuy nhiên Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La căn cứ điểm đ, khoản 2, Điều 191- Luật Tố tụng hành chính xem xét đối với cả quyết định hành chính có liên quan đến quyết định hành chính bị kiện, bởi lẽ Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu có nội dung giữ nguyên Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520 và Quyết định số 2703/QĐ- SLĐTBXH ngày 05/6/2023 có nội dung sửa đổi, bổ sung Quyết định số 227/QĐ-SLĐTBXH ngày 13/01/2023, đều có liên quan đến nội dung khiếu kiện của ông Lò Văn H. Hội đồng xét xử thấy TAND tỉnh Sơn La xem xét tính pháp lý của các quyết định nêu trên để đảm bảo giải quyết toàn diện vụ án là có căn cứ pháp luật.
[3] Về tính hợp pháp của các quyết định hành chính bị kiện:
[3.1] Về thẩm quyền ban hành văn bản.
Căn cứ vào các tài liệu, văn bản hồ sơ vụ án, đối chiếu với các quy định của pháp luật, xét thấy: Giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh Sơn La ban hành các quyết định: Quyết định số 4010; Quyết định số 4520; Quyết định số 2703; Quyết định số 2223 và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La ban hành Quyết định số 617 là đúng pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Thông tư 11/2021/TT-BLĐTBXH ngày 30/9/2021 của Bộ trưởng Bộ L1, hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở L thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng L2 thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại. Hội đồng xét xử thấy TAND tỉnh Sơn La xem xét đánh giá về thẩm quyền ban hành văn bản hành chính của Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La là có căn cứ pháp luật.
[3.2] Về thời hạn giải quyết khiếu nại:
Ngày 07/12/2022, Sở LĐTBXH ra Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu và ngày 13/01/2023 Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; Ngày 24/4/2023, Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Xét thấy kể từ thời điểm thụ lý giải quyết khiếu nại đến khi ban hành các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai đều đảm bảo về thời hạn giải quyết theo quy định tại Điều 28; Điều 37 của Luật Khiếu nại năm 2011. Hội đồng xét xử thấy TAND tỉnh Sơn La xem xét đánh giá về thời hạn giải quyết khiếu nại của Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La là có căn cứ pháp luật.
[3.3] Về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại:
Sau khi thụ lý đơn khiếu nại của ông Lò Văn H, Giám đốc SLĐTBXH và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La đã tiến hành thành lập các tổ xác minh nội dung khiếu nại, thu thập, tài liệu, báo cáo kết quả xác minh bằng văn bản, tổ chức đối thoại trước khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Vì vậy, Giám đốc SLĐTBXH và Chủ tịch UBND tỉnh đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H được quy định tại các Điều 29, 30, 31, 38, 39, 40 Luật Khiếu nại năm 2011.Hội đồng xét xử thấy TAND tỉnh Sơn La xem xét đánh giá về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La và Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La là có căn cứ pháp luật.
[4] Về nội dung của các quyết định hành chính bị kiện:
[4.1] Xác định các nội dung trong quyết định hành chính bị kiện ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của ông Lò Văn H:
Ngày 09/9/2022, Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 4010 với hai nội dung chính: (1) Chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H, thời điểm chấm dứt từ ngày 01/7/2021; (2) Truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H (Lò Văn H1) kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 30/6/2021, tổng số tháng hưởng không đúng quy định là 210 tháng, số tiền truy thu là 86.490.000 đồng.
Ngày 13/10/2022, Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 4520 về việc đính chính một phần Quyết định số 4010 đối với nội dung thứ (2), cụ thể: Truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H (Lò Văn H1) kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/7/2021, tổng số tháng hưởng không đúng quy định là 101 tháng, số tiền truy thu là 17.845.000 đồng.
Ngày 13/01/2023, Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 227 về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần đầu) với nội dung: giữ nguyên các Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520 của Giám đốc SLĐTBXH đã ban hành.
Ngày 24/4/2023, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 617 về việc giải quyết khiếu nại của ông Lò Văn H (lần hai) đã kết luận: đối với với nội dung (1) chấm dứt chế độ trợ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H là đúng quy định. Đối với nội dung (2) về việc truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H: Từ ngày 01/01/2001 đến ngày 05/11/2003, ông H thuộc đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh; từ ngày 06/11/2003 đến ngày 30/9/2004, ông H được hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với cán bộ chuyên trách cấp xã nên việc truy thu trong khoảng thời gian này là không đúng. Từ tháng 10/2004 đến tháng 3/2012, ông H đã được hưởng chế độ phụ cấp khu vực theo lương của cán bộ chuyên trách cấp xã, đồng thời được hưởng phụ cấp khu đối với bệnh binh là không đúng, do đó cần truy thu phụ cấp khu vực ông H được hưởng từ ngày 06/11/2003 - 30/3/2012 (đối với đối tượng là bệnh binh) và từ ngày 01/6/2021 - 30/6/2021 (đối với cán bộ chuyên trách cấp xã).
Trên cơ sở giải quyết khiếu nại lần hai, ngày 16/5/2023 Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 2223 về việc đình chỉ Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520, trong đó có nội dung: Truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh từ ngày 06/11/2003 đến ngày 30/3/2012 do ông H không thuộc đối tượng hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh, mà thuộc đối tượng là cán bộ chuyên trách cấp xã, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh từ ngày 01/6/2021 đến ngày 01/7/2021 do ông khu vực đối với bệnh binh, mà H không thuộc đối tượng hưởng chế độ phụ cấp thuộc đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Không thực hiện truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh thời gian từ ngày 01/4/2012 đến ngày 31/5/2021 do ông H đã nghỉ công tác và chưa được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Ngày 05/6/2023, Giám đốc SLĐTBXH ban hành Quyết định số 2703/QĐ- LĐTBXH về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 227 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với ông Lò Văn H, cụ thể: Sửa nội dung chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với ông H là đúng quy định; bổ sung việc tính trừ thời gian truy thu từ ngày 01/01/2001 đến ngày 05/11/2003 và điều chỉnh nội dung quyết định thành đình chỉ Quyết định số 4010 và Quyết định số 4520 của Giám đốc SLĐTBXH.
Căn cứ vào các quyết định hành chính đã được ban hành nêu trên, xét thấy Quyết định số 4010 và 4520 của Giám đốc SLĐTBXH đều đã bị đình chỉ thực hiện; còn lại các Quyết định số 227 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đã được đính chính tại Quyết định số 2703 của Giám đốc SLĐTBXH; Quyết định số 617 về việc giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh và Quyết định số 2223 của Giám đốc SLĐTBXH về việc thực hiện Quyết định số 617, đều có các nội dung ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của ông Lò Văn H; cụ thể:
(1) Chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H, thời điểm chấm dứt từ ngày 01/7/2021;
(2) Truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh từ ngày 06/11/2003 đến ngày 30/3/2012 và từ ngày 01/6/2021 đến ngày 01/7/2021.
[4.2] Về quá trình công tác và hưởng chế độ của ông Lò Văn H:
Từ tháng 6/1990 đến tháng 9/2000: Ông Lò Văn H tham gia công tác đảm nhận các chức vụ: Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Phó Bí thư Đảng uỷ, Bí thư Đảng uỷ xã C, huyện T.
Từ tháng 10/2000 đến tháng 12/2000 ông H không tham gia bảo hiểm xã hội.
Từ tháng 01/2001 đến tháng 3/2012 đảm nhận chức vụ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã C, huyện T, tỉnh Sơn La.
Từ tháng 4/2012 đến tháng 5/2021 ông H nghỉ việc chờ chế độ bảo hiểm xã hội, không hưởng lương.
Từ ngày 01/6/2021 ông H được hưởng chế độ hưu trí theo Quyết định số 470/QĐ-BHXH ngày 21/7/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La.
[4.3] Về việc chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh:
Ngày 21/7/2021, Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La ban hành Quyết định số 470/QĐ-BHXH về việc hưởng chế độ hưu trí hàng tháng đối với ông Lò Văn H, tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội là 21 năm 7 tháng, được hưởng chế độ hưu trí từ ngày 01/6/2021; mức hưởng chế độ hưu trí gồm: L hưu hàng tháng 1.709.775 đồng; Trợ cấp khu vực một lần 3.017.250 đồng.
Ông Lò Văn H đề nghị Toà án, giải quyết cho ông được tiếp tục hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh vì đây là chế độ ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, ông H đã được hưởng trợ cấp khu vực đối với bệnh binh (hình thức nhận tiền một lần), số tiền 3.017.250 đồng và kể từ ngày 01/6/2021, ông H được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội với lương hưu hàng tháng là 1.709.775 đồng nên ông H không đồng thời được hưởng thêm phụ cấp khu vực đối với bệnh binh.
Theo quy định tại khoản 1 Mục I Thông tư liên tịch số 03/2009/TT- BLĐTBXH ngày 22/01/2009 của Bộ L1 hướng dẫn thực hiện phụ cấp khu vực đối với người hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng theo Nghị định số 122/2008/NĐ-CP ngày 04/12/2008 của Chính phủ, đối tượng áp dụng: “Người lao động nghỉ việc đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc bảo hiểm xã hội một lần từ 01 tháng 01 năm 2007 trở đi mà trước đó đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bao gồm phụ cấp khu vực vì mất sức lao động, tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hưởng trợ cấp hàng tháng thay lương”, và quy định tại khoản 2 Mục II Thông tư số 03/2009/TT-BLĐTBXH của Bộ L1: “Đối tượng quy định tại khoản 1 Mục I Thông tư này ngoài hưởng lương hưu hoặc hưởng BHXH một lần theo quy định còn được hưởng trợ cấp một lần tương ứng với thời gian và số tiền phụ cấp khu vực đã đóng vào quỹ BHXH”. Như vậy, nội dung các quyết định hành chính bị kiện xác định thời gian hưởng chế độ BHXH ông Lò Văn H không thuộc đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực được chi trả cùng kỳ lương do quỹ BHXH chi trả là đúng quy định của pháp luật.
Từ những nội dung trên, Hội đồng xét xử thấy TAND tỉnh Sơn La không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lò Văn H về việc tiếp tục hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh từ ngày 01/7/2021 là có căn cứ pháp luật. [4.4] Về việc truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh:
Căn cứ vào kết quả kiểm tra, rà soát sổ BHXH số 142084844, bảng lương của UBND xã C, huyện T, tỉnh Sơn La (thời kỳ của ông Lò Văn H là cán bộ cấp xã), thấy rằng:
+ Từ tháng 01/2001 đến tháng 9/2004, ông Lò Văn H chưa được hưởng chế độ phụ cấp khu vực theo lương của cán bộ cấp xã và được hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh;
+ Từ tháng 10/2004 đến tháng 3/2012, ông Lò Văn H được hưởng chế độ phụ cấp khu vực theo lương của cán bộ cấp xã, đồng thời được hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh;
+ Từ ngày 01/6/2021 đến ngày 30/6/2021, ông Lò Văn H không được hưởng chế độ phụ cấp khu vực theo chế độ BHXH và được hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh.
Căn cứ quy định tại Mục 2 Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/BNV- BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 18/01/2001; quy định tại khoản 8 Mục I Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 05/01/2005 của Bộ L1, Bộ T, Ủy ban D và Miền núi hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp khu vực thì đối tượng được hưởng phụ cấp khu vực là: “Thương binh (kể cả thương binh loại B, người hưởng chính sách như thương binh), bệnh binh hưởng trợ cấp hàng tháng mà không phải là người hưởng lương, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội”, xét thấy:
- Thời gian từ ngày 01/01/2001 đến ngày 05/11/2003, ông Lò Văn H làm cán bộ cấp xã, chức vụ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh UBND xã C, huyện T, tỉnh Sơn La, ông H không được hưởng lương, mà chỉ được hưởng sinh hoạt phí hàng tháng đối với các bộ cấp xã, vẫn thuộc đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh. Do đó, nội dung của các quyết định hành chính bị kiện gồm 227, 2703, 617 và 2223 xác định không truy thu tiền chế độ bệnh binh của ông Lò Văn H trong thời gian này là đúng quy định.
- Thời gian từ 06/11/2003 đến ngày 30/3/2012, ông Lò Văn H làm cán bộ cấp xã, đã được hưởng lương, chế độ phụ cấp khu vực theo lương của cán bộ cấp xã tại UBND xã C, huyện T, tỉnh Sơn La, nên không còn thuộc đối tượng hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh hàng tháng; nhưng trong thời gian này, ông H vẫn được hưởng đồng thời cả phụ cấp khu vực đối với bệnh binh hàng tháng là sai; do đó, cần phải truy thu tiền phụ cấp đối với bệnh binh trong thời gian này. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, từ ngày 06/11/2003 đến ngày 30/9/2004, ông H làm cán bộ chuyên trách cấp xã, được hưởng lương nhưng chưa được hưởng chế độ phụ cấp khu vực đối với cán bộ chuyên trách cấp xã. Theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 2 và điểm d, khoản 1, Điều 4- Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã phường thị trấn, thời gian ông H làm cán bộ chuyên trách cấp xã, được hưởng thêm chế độ phụ cấp khu vực. Do đó, tại các Quyết định số 617, 2223 có nội dung giải quyết cho ông H được truy lĩnh phụ cấp khu vực khi ông là cán bộ chuyên trách cấp xã trong thời gian từ 06/11/2003 đến ngày 30/9/2004 đã đảm bảo đầy đủ quyền lợi của ông H trong quá trình công tác tại UBND xã C, huyện T, tỉnh Sơn La.
- Thời gian từ 01/4/2012 đến ngày 31/5/2021, ông H nghỉ chờ chế độ bảo hiểm xã hội, không hưởng lương nên thuộc đối tượng hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh. Trong thời gian này, ông H đã được chi trả đúng chế độ nên không có khiếu nại, khiếu kiện về chế độ, chính sách đối với nội dung này.
- Thời gian từ ngày 01/6/2021 đến ngày 30/6/2021, ông H đã được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, không còn thuộc đối tượng hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh, nhưng vẫn tiếp tục được hưởng phụ cấp khu vực đối với bệnh binh là không đúng quy định. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xác định các quyết định hành chính bị kiện gồm 227, 2703, 617 và 2223 có nội dung truy thu tiền chế độ trong thời gian từ ngày 01/6/2021 đến ngày 30/6/2021 của ông Lò Văn H là đúng quy định của pháp luật.
[5] Với những phân tích, nhận định, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[5.1] Về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục ban hành các quyết định hành chính bị khiếu kiện:
Quyết định số 4010 về việc chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H, được đính chính tại Quyết định số 4520 của Giám đốc SLĐTBXH; Quyết định số 227 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đã được đính chính tại Quyết định số 2703 của Giám đốc SLĐTBXH; Quyết định số 617 về việc giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh và Quyết định số 2223 của Giám đốc SLĐTBXH về việc thực hiện Quyết định số 617 đều đã được ban hành đúng thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Thông tư liên tịch số 11/2021/TT-BLĐTBXH ngày 30/9/2021 của Bộ trưởng Bộ L1, hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở L thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng L2 thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại.
[5.2] Về nội dung các quyết định hành chính bị khiếu kiện:
Quyết định số 4010 về việc chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H, được đính chính tại Quyết định số 4520 của Giám đốc SLĐTBXH có nội dung giải quyết chế độ, chính sách đối với ông Lò Văn H về việc truy thu chế độ phụ cấp khu vực của ông Lò Văn H (Lò Văn H1) kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/7/2021, tổng số tháng hưởng không đúng quy định là 101 tháng, số tiền truy thu 17.845.000 đồng là chưa phù hợp với thời gian, quá trình công tác và hưởng chế độ trên thực tế của ông Lò Văn H, chưa đảm bảo quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông H nên đều đã bị đình chỉ thực hiện bởi các Quyết định số 2223 và 2703 của Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Sơn La.
Đối với các Quyết định số 227 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đã được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 2703 của Giám đốc SLĐTBXH; Quyết định số 617 về việc giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND và Quyết định số 2223 của Giám đốc SLĐTBXH về việc thực hiện quyết định số 617, đã chấm dứt chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh ông Lò Văn H, thời điểm chấm dứt từ ngày 01/7/2021 và truy thu chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh của ông H được hưởng không đúng từ ngày 06/11/2003 đến ngày 30/3/2012 và từ ngày 01/6/2021 đến ngày 01/7/2021 là đúng với quy định tại Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã phường thị trấn; Nghị định số 122/2008/NĐ-CP ngày 04/12/2008 của Chính phủ về việc thực hiện phụ cấp khu vực đối với người hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng; Thông tư số 03/2009/TT- BLĐTBXH ngày 22/01/2009 của Bộ L1 hướng dẫn thực hiện phụ cấp khu vực đối với người hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng theo; Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 18/01/2001; Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDTMN ngày 05/01/2005 của Bộ L1, Bộ T, Ủy ban D và miền núi hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp khu vực; Pháp lệnh số: 02/2020/UBTVQH14, ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Ưu đãi người có công với cách mạng; Thông tư số: 44/2022/TT-BTC, ngày 21 tháng 7 năm 2022 của Bộ T Quy định quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng và người trực tiếp tham gia kháng chiến do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý (quy định về truy thu, truy lĩnh đối với các trường hợp hưởng sai chế độ chính sách ưu đãi người có công với cách mạng); đồng thời đã đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của ông Lò Văn H; không gây thất thoát cho Ngân sách Nhà nước.
[5.3] Quá trình xét xử phúc thẩm ông Lò Văn H không cung cấp được các tài liệu nào khác chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo là có căn cứ pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo của ông Lò Văn H. Căn cứ khoản 1, Điều 241-Luật Tố tụng hành chính không chấp nhận kháng cáo của ông Lò Văn H, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2023/HC-ST ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La như đề nghị của đại diện VKSND cấp cao tại Hà Nội.
[6]. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Lò Văn H do là người cao tuổi.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1, Điều 241; khoản 1, Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính; điểm đ, khoản 1, Điều 12; khoản 1, Điều 34-Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
1. Bác kháng cáo của ông Lò Văn H (tên gọi khác Lò Văn H1).
2. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2023/HC- ST ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
3. Về án phí phúc thẩm: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Lò Văn H do là người cao tuổi.
4. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực chế độ chính sách số 197/2024/HC-PT
Số hiệu: | 197/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 01/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về