Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính lĩnh vực giáo dục số 408/2024/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 408/2024/HC-PT NGÀY 16/05/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH LĨNH VỰC GIÁO DỤC

Ngày 16 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 1078/2023/TLPT- HC ngày 20 tháng 12 năm 2023 về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính về lĩnh vực giáo dục”; do bản án hành chính sơ thẩm số 1512/2023/HC-ST ngày 25 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1334/2024/QĐ-PT ngày 24 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Công ty Trách nhiệm hữu hạn P. Trụ sở: 815/1 Nguyễn Văn Q, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị Mỹ L – Giám đốc.

Địa chỉ liên lạc: TWA-16-01B chung cư L, số A M, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Trụ sở: 01 L, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Đ – Chủ tịch (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1978.

Địa chỉ: H đường A, khu nhà ở V, phường H, Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người kháng cáo: người khởi kiện Công ty Trách nhiệm hữu hạn P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện gửi ngày 18/8/2020; Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 27/8/2020; Đơn khởi kiện bổ sung ngày 12/6/2023 cùng các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện trình bày:

Ngày 06/11/2015, Công Ty Trách nhiệm hữu hạn P (viết tắt Công ty P) thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (viết tắt Giấy CNĐKKD) và đăng ký thay đổi lần thứ 2, ngày 20/5/2019 của Phòng Đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H (viết tắt Phòng ĐKKD-Sở KH&ĐT Thành phố), trong đó: bà Phạm Thị Mỹ L là Giám đốc cùng với ông Nguyễn Thành T góp tổng số vốn điều lệ bổ sung là 1,6 tỷ đồng với tỷ lệ 50%.

Với chức năng hoạt động giáo dục, ông Nguyễn Thành T – Chủ đầu tư lập đề án hoạt động và gửi đơn xin phép thành lập Trường Mầm non (viết tắt Trường M) T tại địa chỉ số H N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Phạm Thị Mỹ L - Giám đốc Công ty P ký hợp đồng thuê nhà ngày 12/11/2015 với ông Bành Tấn C, bà Huỳnh Thị Ngọc B về việc thuê nhà với mục đích thuê làm trụ sở Công ty để mở Trường M. Ngày 21/6/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt Chủ tịch A) ban hành Quyết định số 178/QĐ-UBND ngày 21/9/2016 về việc cho phép thành lập Trường M tại địa chỉ thuê nhà trên do ông Nguyễn Thành T - Chủ Trường (viết tắt Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND).

Cuối năm 2019, do ông Nguyễn Thành T có hành vi chiếm đoạt trường là tài sản của Công ty P nên công ty đề nghị điều chỉnh lại tên “Công ty P là Chủ sở hữu” thì Chủ tịch A ban hành Quyết định số 3802/QĐ-UBND ngày 24/8/2020 về thu hồi, hủy bỏ quyết định trên do không đúng đối tượng sở hữu Trường M (viết tắt Quyết định số 3802/2020/QĐ-UBND).

Không đồng ý, Công ty P khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy một phần Quyết định số 178/QĐ-UBND nêu tại đoạn 3 Điều 1 “Ông Nguyễn Thành T - Chủ Trường” và hủy Quyết định số 3802/2020/QĐ- UBND. Đồng thời, bồi thường các thiệt hại như sau:

 

Giá trị doanh nghiệp bị mất do mất quyền sở hữu, dẫn đến thành viên vốn góp không chuyển nhượng vốn góp từ tháng 9/2018 theo giá trị thật từ Trường M đem lại từ hoạt động kinh doanh chính là 1,6 tỷ đồng;

Chi phí thiệt hại liên quan quyền sở hữu của Công ty từ tháng 9/2019 đến tháng 8/2020 doanh thu giảm do ông Nguyễn Thành T lợi dụng nội dung Quyết định số 178/QĐ-UBND để chiếm trường, gây rối, …;

Chi phí Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi Công ty trong giai đoạn tố tụng là 55 triệu đồng;

Các thiệt hại từ kê khai thuế sai, hạch toán cho các chi phí từ tháng 9/2016; Một số thiệt hại khác do hậu quả cấp sai chủ sở hữu phát sinh để bên có nghĩa vụ liên quan lợi dụng chiếm đoạt, xâm phạm hoạt động bình thường của Công ty Đ, ảnh hưởng đến các cô giáo, môi trường giáo dục tại địa phương và các chi phí pháp lý kéo dài vụ việc chuyển qua Tòa hành chính giải quyết.

Người Bị kiện trình bày tại Văn bản số 8517/UBND-NV ngày 10/11/2020, số 4272/UBND-NV ngày 30/6/2023:

Chấp thuận Đơn xin thành lập Trường MN ngày 22/02/2016 của ông Nguyễn Thành T đính kèm Đề án tổ chức hoạt động, Danh sách Chủ đầu tư – cán bộ quản lý (ông Nguyễn Thành T - Chủ đầu tư, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Danh sách giáo viên - công nhân viên, ...) nên Chủ tịch A cho phép thành lập Trường M theo Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND.

Phòng G (viết tắt Phòng GD&ĐT) Quận A ban hành Quyết định số 111/QĐ-GDĐT ngày 19/9/2016 (viết tắt Quyết định số 111/2016/QĐ-GDĐT) về cấp phép hoạt động giáo dục của Trường M. Sau đó, công ty có Văn bản số 11/19/CV.2019 ngày 12/9/2019 phản ánh cấp sai tên chủ sở hữu Trường M trong Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND, Chủ tịch UBND quận A ban hành Văn bản số 542/UBND-NV ngày 17/01/2020 phúc đáp là có sai sót nên sẽ ban hành thu hồi quyết định này và tổ chức kiểm điểm trách nhiệm các cá nhân liên quan đến việc tham mưu. Đồng thời, đề nghị Công ty P lập các thủ tục pháp lý liên quan đến thành lập Trường M đúng pháp luật để được xem xét.

Chủ tịch A đã ban hành Quyết định số 3802/2020/QĐ-UBND về thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND do không đúng đối tượng sở hữu và Văn bản số 6882/UBND-NV ngày 11/9/2020 đề nghị Công ty P lập lại Đề án thành lập trường theo Nghị định 46/2017/NĐ-CP ngày 21/4/2017 và Nghị định 135/2018/NĐ-CP ngày 04/10/2018 của Chính phủ.

Ngày 01/9/2020, Phòng G1 ban hành Quyết định số 126/QĐ-GDĐT (viết tắt Quyết định số 126/2020/QĐ-GDĐT) về thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 111/2016/QĐ-GDĐT do thực hiện theo Quyết định số 3802/2020/QĐ-UBND.

Do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công Ty P. Đồng thời, xin vắng mặt tham gia phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành T có đơn yêu cầu ngày 19/6/2023 trình bày:

Ông không có nhu cầu đồng khởi kiện vụ án này và những vụ án khác (nếu có) cùng bà Phạm Thị Mỹ L nên từ chối tham gia tố tụng cũng như không có ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện, kể cả không nộp thêm tài liệu, chứng cứ và không yêu cầu Tòa án triệu tập người khác tham gia phiên tòa. Đồng thời, tôi yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên đối thoại tại Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho đến khi kết thúc vụ án.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 1512/2023/HC-ST ngày 25 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của Công Ty Trách nhiệm hữu hạn P như sau:

1.1 Hủy đoạn 3 Điều 1 Quyết định số 178/QĐ-UBND ngày 21/9/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh về cho phép thành lập Trường Mầm non T do “Ông Nguyễn Thành T – Chủ T1”. Hủy Quyết định số 3802/QĐ-UBND ngày 24 tháng 8 năm 2020 Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận A, Thành phố Hồ Chí Minh về thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 178/QĐ-UBND ngày 21 tháng 9 năm 2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

1.2 Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thanh toán tổng số tiền bồi thường thiệt hại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn P là 5.617.000.000đ (Năm tỷ sáu trăm mười bảy triệu đồng), bao gồm:

Số vốn đầu tư ban đầu và tăng vốn điều lệ là 1,6 tỷ đồng;

Giá trị tăng lên do mất quyền sở hữu, dẫn đến thành viên góp vốn không chuyển nhượng vốn góp là 2 tỷ đồng;

Phần lợi nhuận bị giảm sút do ảnh hưởng của việc khiếu nại quyết định hành chính từ tháng 9/2019 đến 29/9/2020 là 25 triệu đồng/tháng x 12 tháng là 300 triệu đồng; phần lợi nhuận của Công ty bị mất hoàn toàn do bị niêm yết thông báo đóng cửa, không cho hoạt động từ tháng 10/2020 đến tháng 7/2023 là 49 triệu đồng/tháng x 33 tháng là 1.617.000.000 đồng và một số thiệt hại bao gồm chi phí đi lại, xin nghỉ việc để tham gia quá trình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, … và giải quyết các vấn đề với người lao động; tổn thất tinh thần bị ảnh hưởng do việc khiếu nại, khiếu kiện là 100 triệu đồng.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công Ty Trách nhiệm hữu hạn P về chi phí Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi Công ty trong giai đoạn tố tụng là 55 triệu đồng và các thiệt hại từ kê khai thuế sai, hạch toán cho các chi phí từ tháng 9/2016.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/8/2023, người khởi kiện Công ty TNHH P1 xanh có đơn kháng cáo, đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Phạm Thị Mỹ L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của công ty P. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của luật tố tụng hành chính.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ. Tại phiên tòa, người khởi kiện kháng cáo nhưng không đưa được tài chứng minh cho yêu cầu của minh là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo của người khởi kiện Công ty Trách nhiệm hữu hạn P trong hạn luật định và hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành T có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 225 của Luật tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là có căn cứ.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện:

[2.1] Đối với yêu cầu hủy đoạn 3 Điều 1 Quyết định số 178/2016/QĐ- UBND và Quyết định số 3802/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 21/6/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A ban hành Quyết định số 178/QĐ-UBND cho phép thành lập Trường M do ông Nguyễn Thành T làm chủ sở hữu. Do Công ty P khiếu nại việc ông T lợi dụng danh nghĩa chủ sở hữu đã vi phạm việc quản lý tài sản của T1, làm ảnh hưởng đến công ty P nên công ty đề nghị điều chỉnh lại tên chủ sở hữu là “Công ty TNHH P”. Ngày 24 tháng 8 năm 2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận A đã ban hành Quyết định số 3802/2020/QĐ-UBND về thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND do ban hành không đúng đối tượng sở hữu. Trước khi ban hành Quyết định số 3802/QĐ-UBND thì ngày 17/01/2020, Chủ tịch UBND quận A đã ban hành Văn bản số 542/UBND-NV trả lời cho công ty P có nội dung như sau: Quyết định số 178/QĐ-UBND có sai sót nên sẽ ban hành thu hồi quyết định này và tổ chức kiểm điểm trách nhiệm các cá nhân liên quan đến việc tham mưu. Đồng thời, đề nghị Công ty P lập các thủ tục pháp lý liên quan đến thành lập Trường M đúng pháp luật để được xem xét nhưng công ty P không thực hiện. Như vậy, người bị kiện thừa nhận có sai sót trong quá trình ban hành Quyết định số 178/QĐ-UBND và đã ban hành Quyết định số 3082/QĐ để thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND do không đúng đối tượng là có căn cứ.

Công ty P chỉ yêu cầu hủy đoạn 3 Điều 1 Quyết định số 178/QĐ-UBND có nội dung ông Nguyễn Thành T là chủ sở hữu của trường Mầm non M là không có cơ sở vì nếu chỉ hủy đoạn 3 Điều 1 của Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND thì không thể hiện đối tượng sở hữu của T1 trên quyết định. Do đó, việc người bị kiện ban hành Quyết định số 3802/2020/QĐ-UBND về thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 178/2016/QĐ-UBND là phù hợp với các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện này của Công ty P là có căn cứ.

[2.2] Đối với yêu cầu buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thanh toán tổng số tiền bồi thường thiệt hại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn P là 5.617.000.000đ.

[2.2.1] Việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A ban hành Quyết định 178/2016/QĐ-UBND có nội dung công nhận ông Nguyễn Ngọc T2 là Chủ sở hữu trường Mầm non T là không đúng đối tượng như người bị kiện đã thừa nhận. Tuy nhiên, bà Phạm Thị Mỹ L – Giám đốc Công ty P đã biết việc ông Nguyễn Ngọc T2 được công nhận là chủ sở hữu khi T1 được thành lập nhưng không phản đối, cụ thể:

Công ty P chỉ có hai thành viên sáng lập là ông Nguyễn Ngọc T2 và bà Phạm Thị Mỹ L, mỗi người có 50% vốn góp của công ty. Trong quá trình hoạt động của Trường Mầm non T từ khi được cấp phép hoạt động đến năm 2018 mới phát sinh lãi, bà L được chia theo lợi nhuận hàng tháng thông qua việc chuyển tiền qua số tài khoản đứng tên Phạm Thị Mỹ L; nhưng bà L hay công ty P đều không có ý kiến gì đối với việc ông Nguyễn Thành T điều hành T1. Sau đó, giữa các thành viên của công ty P phát sinh mâu thuẫn thì ông T đã ký Quyết định số QĐ090919 ngày 09/9/2019 có nội dung: “Tất cả các văn bản dưới danh nghĩa Công ty P ký và đóng dấu sẽ không có hiệu lực đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên của Trường M; ông Nguyễn Thành T sẽ có trách nhiệm báo và làm việc với Ban quản trị của Công ty P; mở tài khoản ngân hàng đứng tên Trường M để giao dịch các hoạt động tài chính của nhà trường; ... mọi hoạt động liên quan đến công tác giảng dạy và chăm sóc trẻ, các văn bản liên quan cần phê duyệt, các công văn đến và công văn đi của Ban quản trị nhà trường gửi cho Công ty P ...”; và Thông báo số 101019/TB/2019 ngày 10/10/2019 gửi đến“ ... Phụ huynh các bé học và các cán bộ, nhân viên tại Trường M về sự điều hành hoặc người được ủy quyền của Chủ Trường do có một số mâu thuẫn trong nội bộ thành viên của Công ty P về việc bà Phạm Thị Mỹ L đại diện pháp luật của Công ty P tự ý thay đổi giấy phép và con dấu, tự ý chặn thông báo số dư tài khoản và chiếm dụng không để ở văn phòng Công ty, làm thông báo và đơn khiếu nại gửi lên Phòng GD&ĐT quận 12 cũng như mạng xã hội, không tham dự họp Hội đồng thành viên Công ty để giải quyết mâu thuẫn.”. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà Phạm Thị Mỹ L – Giám đốc Công ty P và ông Nguyễn Thành T bắt đầu từ cuối năm 2019 và các hành động ban hành Quyết định số QĐ090919 và Thông báo số 101019/TB/2019 là xuất phát từ việc mâu thuẫn trong nội bộ công ty giữa ông T và bà L.

[2.2.2] Căn cứ khoản 1 Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định:

“1. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:

a) Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2 Điều này;

b) Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật này;

c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.

…”.

Như vậy, các thiệt hại do Công ty P nêu ra như: giá trị doanh nghiệp bị mất do mất quyền sở hữu, dẫn đến thành viên vốn góp không chuyển nhượng vốn góp từ tháng 9/2018 theo giá trị thật từ Trường M đem lại từ hoạt động kinh doanh chính là 1,6 tỷ đồng; giá trị tăng lên do mất quyền sở hữu, dẫn đến thành viên góp vốn không chuyển nhượng vốn góp là 2 tỷ đồng; phần lợi nhuận bị giảm sút do ảnh hưởng của việc khiếu nại quyết định hành chính từ tháng 9/2019 đến 29/9/2020 là 300 triệu đồng; phần lợi nhuận của Công ty bị mất hoàn toàn do bị niêm yết thông báo đóng cửa, không cho hoạt động từ tháng 10/2020 đến tháng 7/2023 là 1.617.000.000 đồng và một số thiệt hại bao gồm chi phí đi lại, xin nghỉ việc để tham gia quá trình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, … và giải quyết các vấn đề với người lao động; tổn thất tinh thần bị ảnh hưởng do việc khiếu nại, khiếu kiện là 100 triệu đồng là do mâu thuẫn của các thành viên trong công ty; việc ban hành các Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận A không phải là nguyên nhân dẫn đến các thiệt hại nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty P với tổng số tiền 5.617.000.000 đồng là có căn cứ.

[2.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện có kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào khác để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty TNHH P phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện Công ty Trách nhiệm hữu hạn P; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 1512/2023/HC-ST ngày 25 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Về án phí hành chính phúc thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn P phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0002087 ngày 19/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính lĩnh vực giáo dục số 408/2024/HC-PT

Số hiệu:408/2024/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 16/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;