TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 18/2024/KDTM-ST NGÀY 03/07/2024 VỀ HỢP ĐỒNG THI CÔNG XÂY DỰNG
Ngày 03 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 14/2024/TLST-KDTM ngày 19 tháng 3 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng thi công”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 311/2024/QĐXXST-KDTM ngày 02/5/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 319/2024/QĐST-KDTM ngày 24/5/2024; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 480/TB-TA ngày 10/6/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV K; (sau đây viết tắt là công ty K) Địa chỉ trụ sở: Số H, T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. SĐT: 02963.852.xxx.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Vương Hữu T - Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu T1 - Phó Giám đốc công ty. Có mặt - Bị đơn: Công ty TNHH X; (sau đây viết tắt là công ty X) vắng mặt Địa chỉ trụ sở: Số F, đường T, tổ C, khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang.
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Nguyễn Đức L - Chức vụ: Giám đốc. SĐT: 0913.277.xxx
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn Công ty TNHH MTV K trình bày:
Công ty TNHH MTV K có tạm ứng cho Công ty TNHH X số tiền 970.267.000 đồng để thi công công trình Gói thầu số 07: Thi công xây dựng Hạng mục trạm bơm thuộc công trình: Trạm bơm Tiểu vùng B, xã V; Địa điểm huyện T, tỉnh An Giang. Công trình đã được nghiệm thu giai đoạn 1 ngày 01/6/2022 với giá trị là 1.466.714.000 đồng, Công ty đã thu hồi tiền tạm ứng với giá trị là 597.550.000 đồng và thanh toán cho Công ty TNHH X số tiền là 869.164.000 đồng. Sau khi nghiệm thu giai đoạn 1, Công ty TNHH X đã bỏ dở công trình và thể hiện rõ ràng ý định không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và không có lý do chính đáng mà 15 ngày liên tục không thực hiện công việc theo hợp đồng, Công ty TNHH MTV K đã chấm dứt hợp đồng với Công ty TNHH X ngày 30/01/2023.
Đến nay, Công ty TNHH X chưa hoàn trả tiền tạm ứng còn lại cho Công ty TNHH MTV K số tiền là 372.717.000 đồng, mặc dù Công ty TNHH MTV K đã nhiều lần liên hệ làm việc để thu hồi tạm ứng.
Do đó, nguyên đơn Công ty TNHH MTV K khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc Công ty TNHH X trả cho Công ty TNHH MTV K số tiền là 372.717.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng).
Án phí kinh doanh thương mại: theo quy định pháp luật.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn công ty TNHH X vắng mặt không tham gia phiên họp và không gửi tự khai trình bày ý kiến do đó không ghi nhận được ý kiến của công ty.
- Tại phiên tòa:
Nguyên đơn trình bày: xác định giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Công ty TNHH X trả cho Công ty TNHH MTV K số tiền là 372.717.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng mặt không có lý do, không tham gia các phiên hòa giải, công khai chứng cứ, không trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc Công ty TNHH X trả cho Công ty TNHH MTV K số tiền là 372.717.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: công ty K khởi kiện về tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng đối với Công ty X có trụ sở tại thành phố L nên Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 30, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Về thủ tục tố tụng: Các đương sự đã được triệu tập hợp lệ nhưng công ty X vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần thứ hai nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt công ty X là phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung giải quyết vụ án:
[2.1] Công ty TNHH MTV K khởi kiện yêu cầu buộc Công ty TNHH X trả cho Công ty TNHH MTV K số tiền tạm ứng còn lại là 372.717.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng). Tòa án thực hiện, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cũng như thông báo kết quả phiên họp cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để Công ty X thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ của nguyên đơn. Tuy nhiên Công ty X vắng mặt không tham gia phiên họp, hòa giải, xét xử và không gửi văn bản trình bày ý kiến, xem như Công ty X tự từ bỏ quyền lợi cũng như không bác bỏ yêu cầu khởi kiện và chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ để giải quyết vụ án.
[2.2] Căn cứ vào hợp đồng thi công xây dựng số 09/2021/HĐ-XD ngày 05/7/2021 và các phụ lục hợp đồng kèm theo được ký kết giữa công ty K và công ty X cho thấy hai công ty đã xác lập hợp đồng thi công xây dựng, việc xác lập này là tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 138 Luật Xây dựng 2014 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên theo như hợp đồng đã ký kết.
[2.3] Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty K có tạm ứng cho công ty X số tiền 970.267.000 đồng thể hiện tại giấy ủy nhiệm chi ngày 26/7/2021 của ngân hàng B và thư xác nhận phải trả ngày 04/01/2022 của công ty X. Đến ngày 01/6/2022, hai bên tiến hành nghiệm thu giai đoạn 1 thể hiện tại biên bản nghiệm thu xác nhận giá trị hoàn thành giai đoạn 1 là 1.466.714.000 đồng. Theo đó công ty K thu hồi tiền tạm ứng 597.550.000 đồng và thanh toán số tiền 869.164.000 đồng theo giấy ủy nhiệm chi số 0118 ngày 17/6/2022 của ngân hàng B. Tuy nhiên, sau đó công ty X lại bỏ dở công trình, dù phía công ty K đã nhiều lần gửi thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ.
[2.4] Xét thấy, việc công ty X không tiếp tục thi công công trình là ảnh hưởng đến quyền lợi của công ty K nên việc công ty K thông báo chấm dứt hợp đồng ngày 30/01/2023 là đúng theo quy định khoản 2 Điều 145 Luật Xây dựng 2014.
[2.5] Về số tiền tạm ứng còn lại 372.717.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng) phía công ty X vẫn chưa hoàn trả cho công ty K, do đó yêu cầu khởi kiện của công ty K là có cơ sở, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 144, Điều 146 Luật Xây dựng 2014 và Điều 27 Nghị định 37/2015/NĐ-CP ngày 25/4/2015 quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc công ty X có nghĩa vụ trả cho công ty K số tiền 372.717.000 đồng (ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng).
[2.6] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận do đó công ty K không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn trả tạm ứng án phí đã nộp cho công ty K. Công ty X phải chịu án phí kinh doanh thương mại theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ Điều 138, Điều 139, Điều 140, Điều 141, Điều 144, Điều 145, Điều 146 Luật Xây dựng 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020;
- Căn cứ Điều 2, Điều 18, Điều 19, Điều 27, Điều 28, Điều 41, Điều 43 Nghị định 37/2015/NĐ-CP ngày 25/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV K. Buộc công ty TNHH X có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH MTV K số tiền 372.717.000 đồng (ba trăm bảy mươi hai triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH X phải chịu 18.635.000 đồng (mười tám triệu, sáu trăm ba mươi lăm ngàn đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty TNHH MTV K số tiền 9.318.000 đồng (chín triệu, ba trăm mười tám ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001756 ngày 19/3/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về hợp đồng thi công xây dựng số 18/2024/KDTM-ST
Số hiệu: | 18/2024/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 03/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về