TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 20/2024/DS-ST NGÀY 04/03/2024 VỀ ĐÒI TÀI SẢN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 04 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở TAND huyện Mỹ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 115/ 2023/ TLST - DS ngày 20 tháng 11 năm 2023 về việc đòi tài sản quyền sử dụng đất, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/ 2024/ QĐXX - ST ngày 16 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2024/QĐST - DS ngày 01/3/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bảo Y, sinh năm 1991 HKTT: Thôn T, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Người được nguyên đơn ủy quyền: Anh Nguyễn Đăng T, sinh năm 1991 HKTT: Đội 3, thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1960 HKTT: Thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cụ Dương Thị T1, sinh năm 1936 HKTT: Thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
Chị Y có mặt, anh T, bà Đ, cụ T1 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tại tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bảo Y trình bày:
Chị Nguyễn Thị Bảo Y là chủ sử dụng đất hợp pháp thửa đất số 28A; tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010; diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội cấp ngày 31/12/2013 mang tên bà Dương Thị Đ1; ngày 10/5/2023 bà Dương Thị Đ1 tặng, cho chị Nguyễn Thị Bảo Y.
Do chị Y ở xa, không có điều kiện trông nom, nên bà Nguyễn Thị Đ (bác dâu chị Y, đang ở sát thửa đất của chị Y) và cụ Dương Thị T1 (bà ngoại chị Y, đang ở tại ngôi nhà cấp 4 của chị Y) đã xây dựng một ngôi nhà cấp 4 trên thửa đất của chị Y. Chị Y đã nhiều lần yêu cầu bà Đ, cụ T1 phải phá dỡ, di rời toàn bộ ngôi nhà cấp 4 trên thửa đất của chị Y, để trả lại nguyên vẹn thửa đất đúng như thửa đất mà mẹ chị là bà Dương Thị Đ1 tặng, cho chị Y.
Về nguồn gốc thửa đất:
Trước đây thửa đất này là của ông, bà ngoại chị Nguyễn Thị Bảo Y là cụ Dương Văn Đ2 (chết năm 2015), cụ Dương Thị T1; ngày 07/11/2013 cụ Dương Văn Đ2 và cụ Dương Thị T t, cho bà Dương Thị Đ1 (mẹ đẻ chị Nguyễn Thị Bảo Y); ngày 10/5/2023 bà Dương Thị Đ1 tặng, cho chị Nguyễn Thị Bảo Y.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ trình bày:
Bà Nguyễn Thị Đ là con dâu trưởng của cụ Dương Văn Đ2, cụ Dương Thị T1; năm 2023 cụ Dương Thị T1 có nói, cụ T1 sẽ xây dựng 01 gian nhà trên thửa đất mà cụ T1 đang ở. Tháng 9 năm 2023 cụ Dương Thị T1 và bà Nguyễn Thị Đ đã xây dựng một ngôi nhà cấp 4 trên thửa đất mà cụ T1 đang ở. Việc xây dựng ngôi nhà này chỉ có cụ T1 và bà Đ là người đứng ra xây dựng ngoài ra không có ai khác. Hiện nay trên ngôi nhà này ban ngày cụ T1 ở, còn buổi tối thì cụ T1 về nhà bà Đ ngủ.
Trước yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bảo Y bà Đ không đồng ý, vì thửa đất này là của bố mẹ chồng (cụ Dương Văn Đ2, cụ Dương Thị T1), trước năm 2011 cụ Đ2, cụ T1 đã nói là cho vợ chồng bà Đ nhưng chưa làm thủ tục tách sổ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Dương Thị T1 trình bày:
Về nguồn gốc thửa đất số 28A; tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010; diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội cấp ngày 31/12/2013 mang tên bà Dương Thị Đ1 là của vợ, chồng cụ T1. Trên thửa đất này bà Dương Thị Đ1 (con gái cụ T1) có xây dựng một ngôi nhà cấp 4, xây năm 2011 để cho vợ, chồng cụ T1 ở. Hiện nay cụ T1 đang ở ngôi nhà cấp 4 mà cụ T1 cùng với bà Đ đã xây vào tháng 9/2023. Nay chị Y có đơn khởi kiện cụ T1 không đồng ý, vì thửa đất này là của cụ T1.
Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên quan điểm của mình và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện VKSND huyện Mỹ Đức tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của mình.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bảo Y.
- Buộc bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 phải trả lại cho chị Nguyễn Thị Bảo Y thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Buộc bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 phải tháo dỡ và di rời toàn bộ ngôi nhà cấp 4 có diện tích 42,4m2 nằm trong thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bảo Y không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp; miễn án phí cho bà Nguyễn Thị Đ và cụ Dương Thị T1 do bà Đ, cụ T1 là người cao tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định.
Về tố tụng:
- Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Thửa đất số 28A; tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010; diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội cấp ngày 31/12/2013 mang tên bà Dương Thị Đ1; ngày 10/5/2023 bà Dương Thị Đ1 tặng, cho chị Nguyễn Thị Bảo Y; chị Ykhởi kiện bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 trả lại thửa đất này; vì vậy, đây là vụ kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất, nên thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự; do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tài sản tranh chấp là quyền sử dụng đất đều có địa chỉ ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội, nên Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về tư cách đương sự tham gia tố tụng trong vụ án: Quá trình tố tụng, Tòa án xác định tư cách tố tụng của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đúng quy định của pháp luật.
- Về thời hiệu khởi kiện: Đây là vụ kiện tranh chấp đòi tài sản là quyền sử dụng đất, nên không áp dụng thời hiệu theo quy định tại Điều 184, Điều 185 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 155 của Bộ luật dân sự.
Về nội dung vụ án:
* Về yêu cầu khởi kiện:
Thửa đất số 28A; tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010; diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội có nguồn gốc trước đây nằm trong số thửa 226, số tờ bản đồ 04, diện tích 440m2, đứng tên chủ sử dụng hộ Dương Văn Đ2. Năm 2013 cụ Dương Văn Đ2, cụ Dương Thị T1 lập hợp đồng tặng, cho quyền sử dụng đất cho bà Dương Thị Đ1; đến năm 2013, thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội đã được UBND huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/12/2013 mang tên bà Dương Thị Đ1. Ngày 02/6/2023 bà Dương Thị Đ1 tặng, cho chị Nguyễn Thị Bảo Y.
* Về định giá tài sản: Tại biên bản định giá tài sản ngày 27/12/2023 của Hội đồng định giá huyện M định giá:
- Giá trị quyền sử dụng đất là 10.500.000 đồng/m2 - Giá trị nhà tạm xây năm 2011, diện tích 54m2: 355.000 đồng/m2 sàn xây dựng.
- Giá trị 01 cây mít có đường kính 30cm có giá: 1.102.500 đồng.
- 01 bờ tường xây gạch ba banh có trát xi măng xây dựng năm 2011 đã hết khấu hao theo quy định.
- Giá trị nhà tạm xây tháng 9 năm 2023, diện tích 42.4m2: 1.436.000 đồng/m2 sàn xây dựng.
Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bảo Y: Mặc dù từ khi chị Nguyễn Thị Bảo Y được mẹ đẻ là bà Dương Thị Đ1 tặng, cho thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã p, huyện M, Thành phố Hà Nội nhưng không sử dụng; bà Nguyễn Thị Đ (bác dâu chị Y), cụ Dương Thị T1 (bà ngoại chị Y) đã xây dựng nhà tạm (nhà cấp 4), diện tích 42.4m2 trên thửa đất của chị Y khi chưa được phép của chị Y. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy: Thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội vẫn thuộc quyền sử dụng của chị Nguyễn Thị Bảo Y, nên yêu cầu khởi kiện của chị Y buộc bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 phải trả lại thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã p, huyện M, Thành phố Hà Nội và phải tháo dỡ, di rời toàn bộ ngôi nhà cấp 4 xây tháng 9 năm 2023, diện tích 42.4m2 là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.
* Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài sản: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bảo Y được chấp nhận, nên bị đơn bà Nguyễn Thị Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Dương Thị T1 phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản theo quy định của pháp luật. Do chị Y không yêu cầu bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài sản, nên Hội đồng xét xử không xét.
* Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bảo Y được chấp nhận, nên chị Y không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp; phía bị đơn bà Nguyễn Thị Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Dương Thị T1 đều là người cao tuổi, nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 155, Điều 158, Điều 163, Điều 164, Điều 166 của Bộ luật dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bảo Y đối với bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T.
- Buộc bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 phải trả lại cho chị Nguyễn Thị Bảo Y thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 1 (có sơ đồ kèm theo).
- Buộc bà Nguyễn Thị Đ, cụ Dương Thị T1 phải tháo dỡ và di rời toàn bộ ngôi nhà cấp 4 có diện tích 42.4m2 giới hạn bởi các điểm 2, 3, 4, 11,2 nằm trong thửa đất số 28A, tờ bản đồ số: 20 đo đạc năm 2010, diện tích 163,5m2, ở thôn T, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội (có sơ đồ kèm theo).
2. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị Đ và cụ Dương Thị T.
Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị Bảo Y 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007576 ngày 20/11/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 20/2024/DS-ST về đòi tài sản quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 20/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về