Bản án về chấm dứt việc nuôi con nuôi số 03/2024HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MS, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 03/2024HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2024 VỀ CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI

Ngày 10 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La mở phiên họp sơ thẩm công khai giải quyết việc dân sự sơ thẩm thụ lý số 213/2024/TL-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2024 về “Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi” theo Quyết định mở phiên họp số 03/2024/QĐ-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2024.

- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1985 và chị Vì Thị D, sinh năm 1984, địa chỉ: Bản PQ, xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La. Có mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Quàng Thị M, sinh năm 1989, địa chỉ: Bản V, xã CV, huyện MS, tỉnh Sơn La. Có mặt;

+ Anh Hoàng Văn X, sinh năm 1984, địa chỉ: Bản T, xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La. Vắng mặt;

+ Cháu Hoàng Thị Vân C, sinh ngày 27/7/2013, địa chỉ: Bản PQ, xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đề ngày 22/8/2024 và quá trình giải quyết việc dân sự cũng như tại phiên họp anh Hoàng Văn K và chị Vì Thị D trình bày:

Ngày 03/9/2013, vợ chồng anh chị có nhận cháu Hoàng Thị Vân C sinh ngày 27/7/2013 là con đẻ của anh Hoàng Văn X sinh năm 1984 và chị Quàng Thị M sinh năm 1989 (trú tại bản T, xã CB, huyện MS) về làm con nuôi. Anh chị đã thực hiện thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi và đã được UBND xã CB cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 35 ngày 03/9/2013. Sau đó anh chị đã thực hiện đăng ký khai sinh cho cháu Hoàng Thị Vân C tại UBND xã CB cùng ngày 03/9/2013 (số khai sinh 215/2013, quyển số 06/2013). Trong quá trình anh chị nuôi dưỡng cháu C đảm bảo việc chăm sóc nuôi dưỡng cháu tốt nhất và vẫn cho cháu đi lại với bố mẹ đẻ. Nay cháu C và mẹ đẻ của cháu muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi và muốn cho cháu C quay lại nhận mẹ đẻ nên anh chị cũng tôn trọng quyết định của con. Anh chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện MS giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa vợ chồng anh chị và cháu Hoàng Thị Vân C.

Tại bản tự khai cũng như tại phiên họp, chị Quàng Thị Mai trình bày:

Chị và anh Hoàng Văn X (đã ly hôn) có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Vân C sinh ngày 27/7/2013. Do điều kiện kinh tế gia đình không đảm bảo việc nuôi dưỡng con nên vợ chồng chị đã cho cháu C làm con nuôi của anh Hoàng Văn K và chị Vì Thị D. Anh K, chị D đã làm thủ tục nhận nuôi con nuôi đối với cháu C theo quy định tại UBND xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La và đăng K khai sinh cho cháu C vào ngày 03/9/2013. Trong quá trình anh K, chị D nuôi con thì chị vẫn đi lại thăm hỏi con giữa hai nhà không có mâu thuẫn gì. Nay cháu C đã được 10 tuổi và muốn về ở cùng với mẹ đẻ nên hai gia đình thống nhất yêu cầu Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa anh K, chị D và cháu C.

Tại bản tự khai anh Hoàng Văn X trình bày:

Anh và chị Quàng Thị M (đã ly hôn) có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Vân C sinh ngày 27/7/2013 đã cho anh Hoàng Văn K và chị Vì Thị D làm con nuôi từ tháng 9/2013. Nay chị M và cháu C muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi và về sống cùng với nhau anh cùng đồng ý và không có ý kiến gì khác, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản ghi ý kiến cũng như tại phiên họp, cháu Hoàng Thị Vân C trình bày: Cháu được bố Hoàng Văn K và mẹ Vì Thị D nhận nuôi từ tháng 9/2013. Trong quá trình nuôi dưỡng bố K, mẹ D đã chăm sóc và yêu thương cháu như con đẻ và cho phép cháu đi lại thường xuyên với bố mẹ đẻ. Nay cháu muốn về ở cùng với mẹ đẻ cháu nên hai bên gia đình đã thống nhất theo nguyện vọng của cháu và yêu cầu Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.

Tại phiên họp, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MS phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết việc dân sự, nhận định đánh giá phân tích các tài liệu có trong hồ sơ việc dân sự và đề nghị Tòa án nhân dân huyện MS. Căn cứ khoản 4; khoản 1 Điều 25; khoản 1 Điều 26, Điều 27 Luật Nuôi con nuôi năm 2010; Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 35, điểm l khoản 2 Điều 39; khoản 3 Điều 367; Điều 370, Điều 371, Điều 372 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D đối với cháu Hoàng Thị Vân C.

Giao cháu Hoàng Thị Vân C sinh ngày 27/7/2013 cho chị Quàng Thị Mai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu C trưởng thành (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động hoặc đến khi có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người yêu cầu anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D phải chịu lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự theo quy định tại Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án là 300.000VNĐ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự đã được thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của các đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên họp, Tòa án nhân dân huyện MS nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D cư trú tại bản PQ, xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La nên căn cứ khoản 5 Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 35 và điểm l khoản 2 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định việc dân sự yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện MS.

[2] Về yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi: Anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D nhận cháu Hoàng Thị Vân C làm con nuôi từ năm 2013 được sự đồng ý của anh Hoàng Văn X, chị Quàng Thị M (bố mẹ đẻ cháu C). Việc nhận nuôi con nuôi đã được UBND xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi vào ngày 03/9/2013 (số 35/2013).

Việc nhận nuôi con nuôi anh K, chị D là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác và được sự đồng ý của anh Xôm, chị Mai (là bố mẹ đẻ của cháu C). Do đó, có đủ căn cứ xác định việc nhận nuôi con nuôi giữa anh K, chị D và cháu C là hợp pháp.

Cháu C có nguyện vọng được quay về với mẹ đẻ. Tôn trọng quyết định của con, anh K, chị D, anh X và chị M đều đồng ý và yêu cầu Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa anh K, chị D và cháu C.

Do đó, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của anh K, chị D là có căn cứ chấp nhận theo khoản 4; khoản 1 Điều 25; khoản 1 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi.

Quyền, nghĩa vụ của giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ được khôi phục kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt. Do cháu C chưa thành niên, chị Mai và anh Xôm thống nhất giao cháu C cho chị Mai là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động. Cần ghi nhận.

[3] Về lệ phí sơ thẩm: Anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D phải chịu lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4; khoản 1 Điều 25; khoản 1 Điều 26, Điều 27 Luật Nuôi con nuôi năm 2010; Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 35, điểm l khoản 2 Điều 39; khoản 3 Điều 367;

Điều 370, Điều 371, Điều 372 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D.

1. Chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D đối với cháu Hoàng Thị Vân C.

Giao cháu Hoàng Thị Vân C sinh ngày 27/7/2013 cho chị Quàng Thị Mai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu C trưởng thành (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động hoặc đến khi có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Quyền, nghĩa vụ của mẹ nuôi và con nuôi, giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đã làm con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 78 Luật hôn nhân và gia đình và Luật nuôi con nuôi.

2. Về lệ phí: Anh Hoàng Văn K, chị Vì Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự được trừ vào tiền tạm ứng lệ phí đã nộp theo biên lai thu số 0001360 ngày 22 tháng 8 năm 2024 tại C cục thi hành án dân sự huyện MS, tỉnh Sơn La.

3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có mặt tại phiên họp có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định; anh Hoàng Văn Xôm vắng mặt tại phiên họp có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định Viện kiểm sát nhân dân huyện MS có quyền kháng nghị quyết định này trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về chấm dứt việc nuôi con nuôi số 03/2024HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2024HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;