TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 25/2021/DS-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 24 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 117/2020/TLST-DS ngày 18/12/2020 về việc Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số. 13/2021/QĐXXST-DS ngày 22/02/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 16 /2021/QĐST-DS ngày 12/3/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980.
Địa chỉ: TDP V 2, phường M, quận B, thành phố Hà Nội.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Xóm 7, thôn 2, xã P, huyện Q, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện ngày lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn trình bày: : Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 01/5/2019, bà điều khiển xe mô tô đi trên đường Lê Đức Thọ ra hướng Hồ Tùng Mậu thì có va chạm với xe ô tô BKS 30F-64755 do ông Nguyễn Đình T điều khiển khiến bà bị ngã gây chấn thương sọ não, tụ máu não, gãy xương bả vai, vỡ xương gót chân trái, gãy xương ngón chân trái số 4. Sau đó ra đình ông T có đến gia đình bà hỗ trợ 10.000.000 đồng. Khi bà từ viện về gia đình ông T bồi thường 70.000.000 đồng nhưng ông T không chuyển tiền và gia đình bà cũng không nhận được. Nay bà khởi kiện ông T bồi thường số tiền cụ thể như sau:
1. Chi phí cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị giảm sút là 69.795.000 đồng.
2. Hai tháng thu nhập thực tế bị mất 12.000.000 đồng.
3. Chi phí thu nhập thực tế của người chăm sóc bà trong thời gian điều trị 18.000.000 đồng.
4. Thiệt hại khác gồm: Giám định thương tật 3.700.000 đồng, Tiền sửa xe mô tô 4.780.000 đồng.
5. Tổn thương và di chứng do tai nạn gây ra sau này: 74.500.000 đồng
Tổng cộng là 182.775.000 đồng.
- Bị đơn trình bày: Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 01/5/2019 , ông điều khiển xe ô tô BKS 30F-64755 và có xảy ra va chạm với xe máy của bà H BKS 29L1- 10484 khiến bà H bị chấn thương. Trong thời gian ở bệnh viện 108, gia đình ông đã thu xếp gặp gia đình bà H để khắc phục hậu quả của tai nạn, gia đình ông đề nghị bồi thường 70.000.000 đồng, gia đình bà H đã nhận số tiền 10.000.000 đồng, số tiền còn lại gia đình bà H không nhận mà chờ kết quả giám định tỷ lệ thương tật để muốn giải quyết vụ án theo hướng hình sự. Sau đó, cơ quan Công an quận N đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 162 ngày 15/7/2019. Nay bà H khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm yêu cầu ông bồi thường tổng số tiền là 182.775.000 đồng, tuy nhiên gia đình ông hiện đang rất khó khăn, thu nhập không ổn định, bản thân lại đang nuôi 02 con nhỏ và có nợ Ngân hàng nên không đủ khả năng để trả số tiền trên. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện buộc anh T phải bồi thường tổng số tiền là 182.775.000 đồng như đã trình bày.
Bị đơn ông T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa trình bày ông không có khả năng bồi thường cho gia đình H. Do đó, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ý KIẾN CỦA KIỂM SÁT VIÊN THAM GIA PHIÊN TÒA : Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình xây dựng hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đối với người tham gia tố tụng, về phía nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; Về nội dung: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án đề nghị Tòa án Điều 590 Bộ luật Dân sự; Điều 26, 40 Bộ luật Tố tụng năm 2015; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự được xác định là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cụ thể là bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Xét nội dung tranh chấp thấy rằng, tai nạn xảy ra đã được Cơ quan cảnh sát điều tra quận N, thành phố Hà Nội tiến hành điều tra, làm rõ và có quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Nên bà Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Do đó, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm theo Điều 26, điểm d khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông Nguyễn Đình T có đơn xin vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông T theo thủ tục chung được quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án: Khoảng 14 giờ 05 phút ngày 01/5/2019, ông Nguyễn Đình T điều khiển xe ô tô HYUNDAI Santafe màu đen BKS 30F-64755 đi trên đường L ra hướng ra L về H do thiếu quan sát đã đâm vào đuôi xe mô tô Honda Lead màu trắng bạc do bà Nguyễn Thị H điều khiển. Theo bản kết luận giám định số 514/TTPY ngày 07/6/2018 của trung tâm pháp y Hà Nội kết luận tổn hại sức khỏe của bà H là 50% tính theo phương pháp cộng lùi. Qua quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra quận N, thành phố Hà Nội xác định nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là do ông T thiếu quan sát gây tai nạn giao thông đường bộ dân đến bà H tổn hại sức khỏe 50% và gây thiệt hại xe của bà H là 730.000 đồng.
Vụ việc đã được Cơ quan cảnh sát điều tra quận N, thành phố Hà Nội giải quyết và không khởi tố vụ án theo Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 162/QĐ ngày 15/7/2019. Nên bà H khởi kiện yêu cầu ông T bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị tổn hại với tổng số tiền là 182.775.000 đồng.
[3] Về trách nhiệm phải chịu thiệt hại xảy ra: Xét thấy qua thể hiện tại biên bản khám nghiệm ngày 29/5/2019, thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm ngày 15/7/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra quận N, thành phố Hà Nội và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án cho thấy nguyên nhân của vụ tai nạn giao thông là do ông T thiếu quan sát và điều khiển xe ô tô trong hơi thở có nồng độ cồn vượt mức cho phép 0,324 miligam/1 lít khí thở gây tai nạn giao thông đường bộ dẫn đến bà H tổn hại sức khỏe 50% Như vậy, nguyên nhân của vụ tai nạn giao thông xảy ra do lỗi của ông T vi phạm Điều 8 của Luật Giao thông đường bộ.
Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra quận N, thành phố Hà Nội không khởi tố vụ án hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bồi thường với số tiền 182.775.000 đồng.
[4.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn thanh toán chi phí cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị giảm sút là 69.795.000 đồng. Nguyên đơn chỉ xuất trình được hóa đơn, chứng từ tổng số tiền là: 18.232.380 đồng. Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận số tiền có hóa đơn và phù hợp với chi phí thực tế. Số tiền mua thuốc, mua sữa và bó lá mà nguyên đơn trình bày do không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Chi phí thuê xe cứu thương, nạp cổ, đai đeo không có hóa đơn, chứng từ nhưng xét đây là chi phí thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4.2] Xét yêu cầu về việc bồi thường. Hai tháng thu nhập thực tế bị mất là 12.000.000 đồng. Tuy nguyên đơn không xuất trình được thu nhập nhưng có trình bày bán tạp hóa tại nhà với mức thu nhập 6.000.000 đồng/tháng nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu trên. Đối với yêu cầu về chi phí thu nhập thực tế của người chăm sóc trong thời gian điều trị 18.000.000 đồng. Hội đồng xét xử căn cứ vào Nghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 8/7/2006 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Căn cứ vào mức lương tối thiểu vùng theo quy định chấp nhận là 4.180.000 đồng x 2 tháng = 8.360.000 đồng.
[4.3] Xét yêu cầu bồi thường tiền giám định thương tật 3.700.000 đồng tại phiên tòa bà H khai gia đình bà nộp số tiền trên để đi giám định nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với số tiền sửa xe mô tô 4.780.000 đồng. Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận tiền sửa xe mô tô là là 730.000 đồng theo như thông báo của công an mà bà H đã được nhận và không có ý kiến gì.
[4.4] Xét yêu cầu bồi tổn thương và di chứng do tai nạn gây ra sau này: 74.500.000 đồng. Theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường. Căn cứ vào kết luận giám định tỷ lệ thương tật của bà Hòa hội đồng xét xử chấp nhận mức bồi thường là 30 tháng lương .Hiện nay mức lương tối thiểu là 1.490.000 đồng/tháng nên số tiền bù đắp tổn thất tinh thần được tính là 1.490.000 đồng/tháng x 30 tháng = 44.700.000 đồng.
Từ những phân tích nêu trên, xét thấy chỉ có cơ sở chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tổng số tiền bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn là: 87.722.000 đồng. Bị đơn đã trả cho nguyên đơn 10.000.000 đồng nên bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn số tiền là: 77.722.000 đồng
[5] Ý kiến của Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình xây dựng hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đối với người tham gia tố tụng, về phía nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; Bị đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp quy định của pháp luật.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn dự nộp và không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định; Bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 584, điều 585, 589, 590 của Bộ luật dân sự năm 2015
Căn cứ vào các điều 26, điều 40, điều 147, điều 228, điều 271, điều 273, điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 8/7/2006 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Căn cứ Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu ông Nguyễn Đình T bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Buộc ông Nguyễn Đình T bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bà Nguyễn Thị H số tiền: 77.722.000 đồng (Bảy mươi bảy triệu, bảy trăm, hai mươi hai nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc ông Nguyễn Đình T phải chịu: 3.886.100 đồng (Ba triệu, tám trăm tám mươi sáu nghìn, một trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm
Án xử công khai sơ thẩm, Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Toà tuyên án . Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 25/2021/DS-ST
Số hiệu: | 25/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về