TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 70/2021/DS-ST NGÀY 21/07/2021 TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST-DS, ngày 22 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2021/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 43/2021/QĐST-DS, ngày 06 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng N Địa chỉ: Số A phường L, quận B, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Văn T – Giám đốc Ngân hàng N, chi nhánh huyện Đ;
Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Trần Quang B (Có mặt) – Phó Giám đốc Ngân hàng N, chi nhánh huyện Đ;
Địa chỉ: số A đường L, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Đức M (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện nhận ngày 12 tháng 3 năm 2021 và lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm trình bày:
Ngày 23/4/2018, ông Nguyễn Đức M và Ngân hàng N, chi nhánh huyện Đ đã ký hợp đồng tín dụng số 5301-LAV-201800768 để vay số tiền là 400.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ cuối cùng ngày 22/4/2021, trả gốc 03 kỳ, kỳ 1 trả gốc 50.000.000 đồng vào ngày 22/4/2019, kỳ 2 trả gốc 50.000.000 đồng vào ngày 22/4/2020 và kỳ 3 trả gốc 300.000.000 đồng vào ngày 22/4/2021, lãi suất cho vay 11%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi xuất trong hạn, phạt lãi chậm trả 10%/năm, định kỳ trả lãi 06 tháng 01 lần, mục đích vay để đầu tư sản xuất và sinh hoạt gia đình. Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho ông Nguyễn Đức M vay toàn bộ số tiền 400.000.00 đồng. Để đảm bảo cho khoản vay trên, ông Nguyễn Đức M đã ký hợp đồng thế chấp số 245073863/HĐTC ngày 23/4/2018 được công chứng tại Văn phòng công chứng V ngày 23/4/2018 và đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ ngày 23/4/2018 đối với các tài sản: thửa đất số 53, 57, 58 thuộc tờ bản đồ số 101, diện tích 23.658,3m2, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 478782 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/3/2018 đứng tên ông Nguyễn Đức M.
Trong quá trình vay, ông Nguyễn Đức M mới trả được cho Ngân hàng 12.000.000 đồng tiền gốc và 44.611.110 đồng tiền lãi; ông Nguyễn Đức M đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như cam kết, không thanh toán khoản tiền gốc còn lại đến hạn và khoản tiền lãi phát sinh mặc dù ngân hàng đã nhiều lần thông báo yêu cầu trả nợ, đối với những khoản nợ gốc đến hạn mà không thanh toán, Ngân hàng đã có thông báo chuyển sang nợ quá hạn và đã có thông báo thu hồi nợ trước hạn.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn đã đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông Nguyễn Đức M phải thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 21/7/2021) là 495.707.112 đồng, trong đó: nợ gốc là 388.000.000 đồng, lãi trong hạn 76.940.112 đồng, lãi quá hạn là 30.767.000 đồng. Ông Nguyễn Đức M còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh kể từ ngày 22/7/2021 cho đến khi thanh toán xong nợ theo các hợp đồng đã ký kết. Trường hợp ông Nguyễn Đức M không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ thì yêu cầu được xử lý đối với các tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ: thửa đất số 53, 57, 58 thuộc tờ bản đồ số 101, diện tích 23.658,3m2, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 478782 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/3/2018 đứng tên ông Nguyễn Đức M.
2. Đối với bị đơn ông Nguyễn Đức M: Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Đức M nhưng ông M đều vắng mặt tại các buổi làm việc, không đến Tòa án, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh hoặc có yêu cầu phản tố với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 180, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 299, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 322, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, đã đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền tính đến xét xử sơ thẩm (ngày 21/7/2021) là 495.707.112 đồng, trong đó: nợ gốc là 388.000.000 đồng, lãi trong hạn 76.940.112 đồng, lãi quá hạn là 30.767.000 đồng. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Đức M còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
- Trường hợp ông Nguyễn Đức M không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các tài sản đảm bảo để thu hồi nợ: thửa đất số 53, 57, 58 thuộc tờ bản đồ số 101, diện tích 23.658,3m2, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 478782 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/3/2018 đứng tên ông Nguyễn Đức M.
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Bị đơn phải chịu số tiền xem xét, thẩm định tại chỗ.
- Về lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Nguyên đơn phải chịu lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật.
- Về án phí dân sự: bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về thủ tục tố tụng:
[1]1.1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo xác định đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]1.2. Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Đức M có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil theo khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] 1.3. Về sự vắng mặt của bị đơn: Theo kết quả xác minh tại Công an xã Đắk R’la, huyện Đắk Mil thể hiện: Ông Nguyễn Đức M hiện vẫn đang đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ. Tuy nhiên, vào thời điểm xác minh ông Nguyễn Đức M không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì, ở đâu không báo cho chính quyền địa phương nên không biết. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã làm thủ tục thông báo ấn định thời gian làm việc đối với ông Nguyễn Đức M trên Báo công lý các số 41, 42, 43 ra các ngày 21, 25, 28/5/2021; trên Đài tiếng nói Việt Nam phát sóng lúc 17h50-18h00 các ngày 23, 24, 25/5/2021 nhưng ông Nguyễn Đức M đều không có thông tin gì. Hội đồng xét xử đã căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, để tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.
2. Về nội dung tranh chấp:
2.1. Về hợp đồng tín dụng:
[4] Ngày 23/4/2018, ông Nguyễn Đức M và Ngân hàng N, chi nhánh huyện Đ đã ký hợp đồng tín dụng số 5301-LAV-201800768 để vay số tiền là 400.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ cuối cùng ngày 22/4/2021, trả gốc 03 kỳ, lãi suất cho vay 11%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi xuất trong hạn, phạt lãi chậm trả 10%/năm, định kỳ trả lãi 06 tháng 01 lần, mục đích vay để đầu tư sản xuất và sinh hoạt gia đình. Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho bà Nguyễn Đức M vay toàn bộ số tiền 400.000.00 đồng. Như vậy, việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, số tiền vay 400.000.000 đồng, thời hạn vay là 36 tháng kể từ ngày 23/4/2018, hạn trả nợ kỳ cuối cùng ngày 24/4/2021, trả gốc làm 03 kỳ. Trong quá trình vay, ông Nguyễn Đức M mới trả được cho Ngân hàng số tiền gốc 12.000.000 đồng và không thanh toán cho Ngân hàng khoản tiền gốc còn lại khi đến hạn; việc ông Nguyễn Đức M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc cho Ngân hàng là vi phạm Điều 5 của hợp đồng tín dụng đã ký kết, vi phạm Điều 466 của Bộ luật dân sự do đó Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Đức M phải thanh toán số nợ gốc còn lại là có căn cứ, cần chấp nhận và buộc bị đơn phải thanh toán số nợ gốc là: 388.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi tám triệu đồng).
[6]Đối với yêu cầu của nguyên đơn về tiền lãi: Nội dung thỏa thuận về lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Đức M theo hợp đồng tín dụng đã ký kết là phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay của các tổ chức tín dụng tại Điều 3, Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, phù hợp với các quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự, do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải thanh toán lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn chưa thanh toán tính đến ngày xét xử (ngày 21/7/2021) là 107.707.112 đồng, cụ thể: Lãi trong hạn 76.940.112 đồng, lãi quá hạn 30.767.000 đồng. Ông Nguyễn Đức M còn phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng đã ký kết kể từ ngày 22/7/2021 cho đến khi trả xong nợ.
2.2. Đối với tài sản thế chấp:
[7]2.2.1. Hiệu lực của hợp đồng thế chấp: Để bảo đảm cho khoản vay, ông Nguyễn Đức M đã thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất đối với: thửa đất số 53, 57, 58 thuộc tờ bản đồ số 101, diện tích 23.658,3m2, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 478782 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/3/2018 đứng tên ông Nguyễn Đức M. Hợp đồng thế chấp đã được công chứng tại Văn phòng công chứng V và được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ. Hợp đồng thế chấp được lập đúng hình thức, nội dung và có đăng ký giao dịch đảm bảo theo quy định pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.
[8]2.2.2. Về tài sản thế chấp: Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/5/2021, xác định thửa đất số 53, 57, 58 thuộc tờ bản đồ số 101, diện tích 23.658,3m2, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 478782 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/3/2018 đứng tên ông Nguyễn Đức M là phù hợp với bản đồ giải thửa; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trên thực tế phù hợp, đúng vị trí.
[93. Đối với ông Nguyễn Đức M, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần (đã tiến hành thông báo, niêm yết theo đúng quy định của pháp luật) và đã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có thông tin, không đến Tòa án làm việc; không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên phải chịu hậu quả về việc không đưa ra chứng cứ để chứng minh theo khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[10]4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu số tiền 23.828.284 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
5. Về các chi phí tố tụng khác:
[11]5.1. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định do nguyên đơn đã nộp tạm ứng trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 157 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[12]5.2. Về chi phí đăng tin: Nguyên đơn phải chịu số tiền 5.000.000 đồng chi phí đăng tin theo Điều 180 của Bộ luật tố tụng dân sự được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp. Nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ này.
[13]Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 180, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 299, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 322, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N (nguyên đơn) đối với ông Nguyễn Đức M (bị đơn) về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.
1. Buộc ông Nguyễn Đức M phải trả cho Ngân hàng N tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 21/7/2021) là 495.707.112 đồng (Bốn trăm chín mươi lăm triệu bảy trăm lẻ bảy nghìn một trăm mười hai đồng), trong đó nợ gốc là: 388.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi tám triệu đồng), lãi trong hạn 76.940.112 đồng (Bảy mươi sáu triệu chín trăm bốn mươi nghìn một trăm mười hai đồng), lãi quá hạn là 30.767.000 đồng (Ba mươi triệu bảy trăm sáu mươi bảy nghìn).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 22/7/2021), ông Nguyễn Đức M phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất được thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi trả xong nợ. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Trường hợp ông Nguyễn Đức M không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ đối với: thửa đất số 53, 57, 58 thuộc tờ bản đồ số 101, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 478782 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/3/2018 đứng tên ông Nguyễn Đức M.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Đức M phải nộp 23.828.284 đồng (Hai mươi ba triệu tám trăm hai mươi tám nghìn hai trăm tám mươi bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng N, chi nhánh Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.050.000 đồng (Mười một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai số 0004940 ngày 19/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đ.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Đức M có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng N, chi nhánh Đ số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định do Ngân hàng N, chi nhánh Đ đã nộp tạm ứng trong quá trình giải quyết vụ án.
5. Về chi phí đăng tin: Ngân hàng N, chi nhánh Đ phải nộp số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) chi phí đăng tin được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp. Nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ này.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng số 70/2021/DS-ST
Số hiệu: | 70/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về