Bản án tội vận chuyển hàng cấm số 13/2024/HS-ST về

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 29 tháng 3 năm 2024, Toà án nhân dân huyện Cam Lộ mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 09/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 12/2024/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Lê Văn T, sinh ngày 09/9/1968 tại tỉnh Hà Tỉnh; nơi ĐKNKTT và chổ ở:

thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Trần Thị H1 (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị L và có 04 con, lớn nhất sinh năm 1995 và nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 28/12/2023, được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

2. Hồ Hữu T1, sinh ngày 18/10/1958 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ĐKNKTT và chổ ở: thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ V và bà Lê Thị T2 (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị T3 và có 04 con, lớn nhất sinh năm 1984 và nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 28/12/2023, được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Hồ Thị Mỹ L1, sinh năm 1984; địa chỉ: nơi ĐKNKTT: khóm T, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị; hiện trú tại: thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 17/12/2023, Hồ Hữu T1 và Lê Văn T cùng nhau đi bộ ra quán B ở gần đường Q, để ăn sáng. Khi đi đến gần quán, T1 và T gặp một người phụ nữ không quen biết đang đứng bên lề đường, hỏi thuê vận chuyển 04 (bốn) hộp pháo hoa nổ từ huyện H về cầu H, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Người phụ nữ nói chở pháo về phía nam chân cầu H, sẽ có người nhận pháo và trả tiền công vận chuyển là 100.000 đồng/01 hộp pháo, T và T1 đồng ý. Người phụ nữ hẹn khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 18/12/2023 đến lấy 04 (bốn) hộp pháo đựng trong 02 bao ni long màu đen tại khu vực chân cầu L (cầu T) ở thôn L, xã T, huyện H, rồi giao vào lúc 07 giờ 00 ngày 19/12/2023 tại phía nam cầu H. Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 18/12/2023, T đi bộ qua nhà T1, điều khiển xe mô tô BKS 74H1-125.90 (xe của chị Hồ Thị Mỹ L1), chở T1 đến cầu L lấy pháo. Khi đến cầu, cả hai thấy ở bụi cây gần khu vực chân cầu có 02 bao ni long màu đen, T1 đi xuống kiểm tra thấy một bao đựng 02 (hai) hộp pháo hoa nổ bên ngoài dán giấy nhiều màu, ký hiệu T4049 CS689; một bao đựng 02 (hai) hộp pháo hoa nổ bên ngoài dán giấy nhiều màu, ký hiệu C0834. T1 cầm 02 bao ni long rồi lên xe, T chở T1 đi về nhà T1 ở thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị. T1 và T bỏ 02 hộp pháo hoa nổ loại 49 vào trong cốp xe mô tô BKS 74H1-125.90, rồi lấy áo mưa màu xanh đậy lại. Còn 02 hộp pháo hoa nổ loại 36 ống, T đi về nhà lấy 01 balô màu nâu đựng rồi để ở gác chân phía trước của xe mô tô. T1 hẹn Tứ khoảng 04 giờ 00 phút, ngày 19/12/2023, đi giao pháo. Khoảng 04 giờ ngày 19/12/2023, T đi bộ qua nhà T1 rồi điều khiển xe mô tô BKS 74H1-125.90 chở T1 và 04 (bốn) hộp pháo hoa nổ đi về cầu H để giao pháo. Khi đến Km 1084+50m đường H nhánh Đông thuộc địa phận xã C, huyện C, tỉnh Quảng Trị, T và T1 bị Tổ tuần tra của Cảnh sát giao thông Công an huyện C kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ niêm phong 04 (bốn) hộp pháo hoa nổ có đặc điểm nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định số: 78/KL-KTHS ngày 26/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh Q về P, kết luận: mẫu vật được niêm phong trong thùng giấy gửi đến giám định là pháo hoa nổ, khối lượng là 6,13kg (sáu phẩy mười ba kilogam).

Cáo trạng số 12/CT-VKSCL ngày 11 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ đã truy tố bị cáo Lê Văn T và Hồ Hữu T1 về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự; riêng bị cáo Lê Văn T áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Lê Văn T và Hồ Hữu T1 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Hồ Hữu T1 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy, gồm:

- Số pháo hoa còn lại sau giám định gồm 02 hộp, khối lượng 3,08kg.

- 01 (một) bao nilon màu đen kích thước 40x80cm, bao đã qua sử dụng.

- 01 (một) bao nilon màu đen kích thước 30x50cm, bao đã qua sử dụng.

- 01 (một) áo mưa màu xanh kích thước 100 x 140cm, trên áo mưa có các hình ô vuông nhỏ, đã qua sử dụng.

- 01 (một) áo mưa bằng nilon kích thước 80 x 130cm, trên áo mưa có họa tiết dạng cánh hoa màu xanh, đã qua sử dụng.

- 01 balô màu nâu không có nhãn hiệu, kích thước 28x25x50cm, đã qua sử dụng.

* Về án phí: mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận hành vi vận chuyển pháo để lấy tiền công là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án và xác định tội danh: lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai, tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: khoảng 07 giờ ngày 17/12/2023, bị cáo Lê Văn T và Hồ Hữu T1 đi ăn sáng đã gặp và nhận vận chuyển thuê cho một người phụ nữ không rõ lai lịch 04 hộp pháo hoa nổ từ huyện H về cầu H, huyện V để nhận 400.000 đồng tiền công. Sau khi nhận pháo ở cầu L, khoảng 04 giờ ngày 19/12/2023 các bị cáo xuất phát đi từ nhà ở T, H, khoảng 7 giờ sáng cùng ngày khi các bị cáo vận chuyển số pháo trên về đến Km 1084+50m đường H nhánh đông thuộc xã C, huyện C thì bị công an huyện C bắt quả tang; kết luận giám định 04 hộp pháo là loại pháo hoa nổ, có khối lượng 6,13 kg. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ truy tố các bị cáo Lê Văn T và Hồ Hữu T1 về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trong vụ án này có hai bị cáo tham gia nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạn, phân công nhiệm vụ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mang tính bột phát, tham gia đều với vai trò là người thực hành.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc vận chuyển pháo nổ là trái pháp luật nhưng do được trả tiền công vận chuyển cao và trong thời gian không có việc làm muốn có thêm thu nhập mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, gây ảnh xấu đến tình hình, trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo Lê Văn T có bố được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên thấy rằng: các bị cáo phạm tội lần đầu, được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của BLHS để xử phạt các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và áp dụng Điều 35 của BLHS để xử phạt tiền làm hình phạt chính đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng răng đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Trong vụ án này có người thuê các bị cáo vận chuyển pháo nổ, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được, khi nào điều tra được sẽ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng như mô tả và đề nghị xử lý của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử thống nhất hướng xử lý vật chứng theo đề nghị của Viện kiểm sát, cụ thể:

Đối với số pháo nổ hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 bao ni long màu đen, 02 cái áo mưa và 01 cái ba lô là công cụ các bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô BKS 74H1-125.90 mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội là xe của chị Hồ Thị Mỹ L1, chị L1 không biết bố mình là bị cáo T1 sử dụng vận chuyển pháo nên Cơ quan điều tra đã trả cho chị L1 là đúng quy định. Chị L1 nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[6] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Áp dụng biện pháp ngăn chặn: các bị cáo bị Toà án xử phạt tiền là hình phạt chính nên hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 13 và 14/2024/HSST- LCĐKNCT ngày 14/3/2024 của Toà án nhân dân huyện Cam Lộ đối với các bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, riêng bị cáo Lê Văn T áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về tội danh: tuyên bố các bị cáo Lê Văn T Hồ Hữu T1 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Lê Văn T 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Hồ Hữu T1 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy, gồm:

- Số pháo hoa còn lại sau giám định gồm 02 hộp, khối lượng 3,08kg, được niêm phong trong thùng giấy có ký hiệu PT. Hiện đang được bảo quản tại Công an huyện C.

- 01 (một) bao nilon màu đen kích thước 40x80cm, đã qua sử dụng.

- 01 (một) bao nilon màu đen kích thước 30x50cm, đã qua sử dụng.

- 01 (một) áo mưa màu xanh kích thước 100x140cm, trên áo mưa có các hình ô vuông nhỏ, đã qua sử dụng.

- 01 (một) áo mưa bằng nilon kích thước 80x130cm, trên áo mưa có họa tiết cánh hoa màu xanh, đã qua sử dụng.

- 01 (một) balo màu nâu không có nhãn hiệu kích thước 28x25x50cm, đã qua sử dụng.

Hiện các vật chứng trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2024, giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cam Lộ.

4. Về án phí: các bị cáo Lê Văn T và Hồ Hữu T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án tội vận chuyển hàng cấm số 13/2024/HS-ST về

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lộ - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;