Bản án số về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 30/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN SỐ 30/2022/DS-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 39/2022/TLST-DS ngày 17 tháng 03 năm 2022, về tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 08 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Vũ Minh Phượng U (tên gọi khác là V), sinh năm 1973 Địa chỉ: Số nhà 39, đường T, phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1954 và ông Vũ Ngọc Q, sinh năm 1950 Địa chỉ: Số nhà 81, đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Người đại diện theo ủy quyền của bà H, ông Q: Ông Vũ Văn B, sinh năm 1975 Địa chỉ: Số nhà 34, đường T, phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

(Văn bản ủy quyền ngày 15/04/2021)

Vũ Thị Phương Hồng H1, sinh năm 1972 Địa chỉ: Số nhà 91, đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

3. Những người tham gia tố tụng khác:

+ Bà Vũ Thị Phương L, sinh năm 1977;

Đa chỉ: Số 81, đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (Các đương sự có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Vũ Minh Phượng U trình bàyUyền Huy:

Bà Vũ Minh Phượng U có làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng nên đã cho bà Nguyễn Thị H, bà Vũ Thị Phương Hồng H1 vay tiền nhiều lần, cụ thể như sau: Ngày 26/3/2019 bà H và bà H1 có vay số tiền 2.420.000.000đ (hai tỷ bốn trăm hai mươi triệu đồng), mục đích đáo hạn Quỹ tín dụng (QTD) phường II, thành phố B, lãi suất thỏa thuận trong giấy là 03%/tháng. Việc vay tiền có làm giấy tờ, giấy do bà H1 trực tiếp viết và bà H1 cùng bà H ký, ghi họ tên phía đại diện bên vay và bà H, cùng bà H1 có ghi đã nhận đủ số tiền. Thời hạn vay tiền là 05 ngày, từ ngày 26/3/2019 đến ngày 30/3/2019.

Cũng trong ngày 26/3/2019 sau khi cho vay số tiền nêu trên thì bà H có vay thêm số tiền 210.000.000 đồng, mục đích vay theo bà H nói là để trả tiền lãi của QTD và chi tiêu gia đình. Việc vay tiền này hai bên có lập giấy tờ, nội dung giấy vay tiền này do bà U ghi, sau khi đọc nội dung bà H có ghi nhận đúng nội dung và có ký, ghi họ tên phía đại diện bên vay. Về lãi suất thỏa thuận theo giấy là 03%/tháng, thời hạn vay 10 ngày kể từ ngày 26/3/2019 đến ngày 05/4/2019.

Khi hết thời hạn cho vay bà H, bà H1 không trả tiền nợ gốc và lãi cho bà U mặc dù bà U có đòi nhiều lần. Sau đó bà H có giao cho bà U 01 giấy chứng nhận QSD đất số M 604553 mang tên hộ bà Nguyễn Thị H, được UBND thị xã B (nay là thành phố B) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 25/7/1998, đối với thửa đất số 227 và 88 tờ bản đồ số F1341, đất tọa lạc tại phường L, B, Lâm Đồng. Mục đích làm tin cho khoản nợ mà gia đình bà H và bà H1 vay.

Ngoài ra ngày 02/4/2019 bà Vũ Thị Phương Hồng H1 có vay của bà U số tiền 1.550.000.000 đồng, mục đích đáo hạn Quỹ tín dụng. Việc vay tiền hai bên có lập giấy tờ, giấy do bà H1 trực tiếp viết và ký tên phía đại diện bên vay, bà H1 cũng ký, ghi họ tên xác nhận đã nhận đủ số tiền 1.550.000.000 đồng.

Tng số tiền bà U cho bà H và bà H1 vay gốc là 4.180.000.000 đồng.

Ngày 22/01/2020 bà U có tiến hành đối chiếu nợ và tính lãi suất là 02%/tháng thì bà H và bà H1 còn nợ tổng số tiền là 5.000.500.000 đồng (làm tròn là 5.000.000.000 đồng nhưng đến ngày 22/11/2020 bà U mới viết giấy chốt nợ đưa cho bà H1 giữ, nội dung giấy chốt nợ thể hiện “Cô H và C. H1 còn nợ V tổng cộng 5.000.000.000 (Năm tỷ đồng), đã trả được 2.550.000.000 đồng, còn nợ lại 2.450.000.000 đồng”, đồng thời bà U có ghi “Hôm nay V không tính lãi từ tết tới h. nên cô H trả càng sớm càng tốt. Phải trả trong tháng 12/2020”.

Quá trình vay tiền bà H1 đã trả cho bà U một số tiền cụ thể như sau: Ngày 10/4/2020 trả 100.000.000 đồng, ngày 21/5/2020 trả 700.000.000 đồng, ngày 22/7/2020 trả 1.750.000.000 đồng, tất cả các lần trả tiền hai bên đều không lập giấy tờ gì. Tổng cộng bà H1 đã trả cho bà U số tiền 2.550.000.000 đồng. Số tiền trả này bà U trừ đi số tiền nợ riêng của bà H1 là 1.550.000.000 đồng và lãi là 294.000.000 đồng (tổng cộng cả gốc và lãi là 1.844.000.000 đồng), số tiền còn lại là 706.000.000 đồng bà H1 nói trừ vào số nợ 2.630.000.000 đồng của gia đình ông Q, bà H và H1 vay ngày 26/3/2019 nên bà H, ông Q và H1 còn nợ lại số tiền 2.450.000.000 đồng.

Do trong thời gian vay tiền thì ông Vũ Ngọc Q có viết giấy ủy quyền cho bà H đi vay tiền của bà U, sau này ông Q cũng viết giấy khất nợ với bà U nên nay bà U yêu cầu bà H, ông Q và bà H1 có trách nhiệm liên đới trả số tiền nợ gốc là 2.450.000.000 đồng và lãi suất quá hạn là 2,49%/tháng, tính từ ngày 22/01/2020 tạm tính đến ngày 26/3/2021 là 14 tháng 04 ngày thành tiền là 862.000.000 đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi là 3.312.000.000 đồng.

Ngoài ra bà U yêu cầu bà H, ông Q và bà H1 tiếp tục chịu lãi suất quá hạn tính đến ngày xét xử hôm nay.

Về tiền lãi từ khi chốt nợ bà U tính 02% cho bà H, ông Q và bà H1 thì nay bà U không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết lại.

Đi với 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà H đưa cho bà U để làm tin là số M 604553 Do UBND thị xã B (nay là thành phố B) cấp ngày 25/07/1998 đứng tên Nguyễn Thị H để làm tin thì bà U đồng ý trả lại cho ông Q, bà H.

Đi diện ủy quyền của bị đơn bà H, ông Q là ông Vũ Văn B trình bày:

Trong năm 2019 vợ chồng bị đơn có vay tiền của nguyên đơn cụ thể như sau: Ngày 26/03/2019 vay 2.630.000.000 đồng (gồm 02 khoản, trong đó 01 khoản là 2.420.000.000 đồng và 01 khoản là 210.000.000 đồng), trong đó khoản nợ 210.000.000 đồng gồm nợ gốc là 125.000.000 đồng và tiền lãi là 85.000.000 đồng. Việc vay tiền do bà H và chị H1 thực hiện, không có sự có mặt của ông Vũ Ngọc Q. Cả hai khoản vay trên đều có lập giấy tờ, giấy vay số tiền 2.420.000.000 đồng do chị H1 viết, còn giấy vay 210.000.000 đồng do bà U viết, chữ ký bên vay là do bà H trực tiếp ký, ghi rõ họ tên. Mục đích vay tiền là để đáo hạn Quỹ tín dụng và chi tiêu trong gia đình, thời hạn vay đối với khoản 2.420.000.000 đồng vay từ ngày 26/3/2019 đến ngày 30/3/2019, còn khoản 210.000.000 đồng vay từ ngày 26/3/2019 đến ngày 05/4/2019. Lãi suất thỏa thuận trong giấy đều là 03%/tháng, nhưng theo thỏa thuận miệng là 3.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày, trong thời hạn vay đề trong giấy vay tiền thì ông Q, bà H và chị H1 chưa trả tiền lãi cho bà U.

Sau khi vay tiền thì ngày 27/3/2019 chị H1 mang số tiền 1.000.000.000 đồng đến nhà trả cho bà U. Đến ngày 01/4/2020 chị H1 tiếp tục mang tiền đến nhà bà U để trả cho bà U số tiền 100.000.000 đồng, ngày 21/5/2020 chị H1 mang tiền đến nhà trả cho bà U số tiền 700.000.000 đồng, ngày 22/7/2020 chị H1 mang tiền đến nhà trả cho bà Usố tiền 1.750.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền ông Q, bà H, bà H1 đã trả cho bà U là 04 lần với số tiền là 3.550.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền này là tiền của bà H, ông Q và chị H1 trả cho khoản nợ gốc và lãi của số tiền 2.630.000.000 đồng và trả tiền lãi là 920.000.000 đồng, về lãi suất thì tính theo ngày cứ 3.000 đồng/ngày/1.000.000 đồng.

Ngoài nội dung trên ông Q cũng thừa nhận giấy ủy quyền không ghi ngày, tháng, năm (bút lục 67) và giấy khất nợ đề ngày 24/01/2020 (bút lục 68) trong hồ sơ vụ án là giấy do ông Q trực tiếp viết, ký, ghi rõ họ tên.

Nay bà U khởi kiện yêu cầu ông Q, bà H và chị H1 cùng có trách nhiệm liên đới trả cho bà U số tiền nợ gốc còn lại là 2.450.000.000 đồng và lãi suất phát sinh thì ông Q, bà H không đồng ý vì đã trả xong nợ cho bà U từ ngày 22/7/2020 rồi, ngoài ra bà H, ông Q cũng không còn nợ bà U bất kỳ khoản nợ nào khác.

Về tiền lãi bà H, ông Q đã trả cho bà U thì không yêu cầu tính lại.

Ông Q, bà H yêu cầu bà U trả lại 01 giấy chứng nhận QSD đất số M 604553 do UBND thị xã B cấp ngày 25/7/1998 đối với diện tích 21.003m2 thuc thửa 277 và 88 tờ bản đồ F134I tọa lạc tại phường L, thành phố B cho vợ chồng ông Q, bà H.

Đi với việc chị H1có vay riêng của bà U số tiền 1.550.000.000đ vào ngày 02/4/2019 thì ông Q, bà H hoàn toàn không biết và không liên quan.

Bị đơn bà Vũ Thị Phương Hồng H1 trình bày:

Ngày 26/3/2019 bà và mẹ của bà là bà Nguyễn Thị H đến nhà bà U vay số tiền 2.420.000.000 đồng (hai tỷ bốn trăm hai mươi triệu). Hai bên có lập giấy vay tiền viết tay, giấy do bà H1 trực tiếp viết và ký ghi rõ họ tên là Vũ Thị Phương Hồng H1 phía đại diện bên vay, thời hạn vay tiền từ ngày 26/3/2019 đến ngày 30/3/2019, lãi suất thỏa thuận ghi trong giấy là 03%/tháng.

Ngoài ra trong cùng ngày 26/3/2019 thì mẹ của bà là bà H có vay của bà U số tiền 210.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 26/3/2019 đến ngày 05/4/2019 nhưng thực chất số tiền này mẹ bà vay của bà U trước ngày 26/3/2019 một tuần với số tiền gốc là 125.000.000 đồng, đến ngày 26/3/2019 cộng cả gốc và lãi thành 210.000.000 đồng.

Việc vay tiền của bà U thì bố của bà là ông Vũ Ngọc Q có biết và sau này ông Q có viết giấy ủy quyền cho bà Hđi vay tiền của bà U để đáo hạn Quỹ tín dụng phường 2 và viết giấy khất nợ với bà U.

Toàn bộ số tiền vay của bà U nêu trên một phần mẹ của bà dùng chi tiêu cho gia đình, một phần dùng trả nợ Quỹ tín dụng. Tuy nhiên, bà H1 xác định hai lần vay tiền trên thì bà có đi vay với mẹ bà một lần, còn một lần mẹ bà tự đi vay nhưng về nghĩa vụ trả tiền thì bà đồng ý cùng bố, mẹ trả toàn bộ số nợ cho bà U.

Quá trình vay tiền của bà U thì mẹ của bà có giao cho bà U 01 cuốn sổ đỏ số M 604553 cấp cho hộ bà Nguyễn Thị H ngày 25/7/1998 để làm tin.

Ngoài ra vào ngày 02/4/2019 bà H1 có vay riêng của bà U số tiền 1.550.000.000 đồng nhưng do lúc đầu có ý định vay là 1.600.000.000 đồng nên khi viết giấy ghi là vay 1.600.000.000 đồng còn viết chữ bà H1 xác định vay 1.550.000.000 đồng, số tiền này bà H1 vay về đáo hạn nợ riêng của bà tại ở Quỹ tín dụng B’Lao. Việc vay tiền hai bên có lập giấy viết tay, giấy do bà H1 trực tiếp viết nội dung, chữ ký, ghi rõ họ tên đại diện bên vay là do bà H1 trực tiếp ký và ghi rõ họ tên. Về thời hạn vay ghi trong giấy từ ngày 02/4/2019 đến ngày 03/4/2019, lãi suất thỏa thuận ghi trong giấy là 03%/tháng.

Sau đó bà H1 có thay mặt bố mẹ đi trả tiền cho bà U cụ thể như sau: Ngày 26/3/2019 trả 1.000.000.000 đồng, ngày 01/4/2020 trả 100.000.000 đồng, ngày 21/5/2020 trả 700.000.000 đồng và lần cuối cùng trả 1.750.000.000 đồng.

Đi với khoản nợ riêng của bà H1 thì bà trả cho bà U vào ngày 02/4/2019 trả 1.550.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi nhưng bà không nhớ cụ thể tiền lãi là bao nhiêu.

Như vậy bà đã trả hết nợ riêng và nợ chung của bà và bố, mẹ cho bà U nên bà và bố, mẹ bà không còn nợ bà U khoản tiền nào khác.

Bà H1 cũng thừa nhận ngày 22/11/2020 bà U đưa cho bà 01 tờ giấy do bà U tự viết, ký tên nhưng sau khi mang về cho bố mẹ xem nội dung thì bố, mẹ bà nói đã trả hết nợ cho bà U rồi nên không đồng ý trả nữa chứ không có giấy tờ gì phản bác gửi cho bà U. Sau này bà U không đến nhà đòi tiền gia đình bà nữa.

Về trách nhiệm trả tiền nợ giữa bà và bố mẹ đối với khoản nợ 2.630.000.000 đồng thì không chia cụ thể ai phải trả bao nhiêu tiền.

Nay bà U khởi kiện bà cùng bố, mẹ có trách nhiệm liên đới trả cho bà U số tiền nợ gốc là 2.450.000.000 đồng và lãi phát sinh thì bà không đồng ý trả cho bà U nữa vì bà cũng như bố, mẹ bà không còn nợ gì bà U.

Đi với số tiền lãi bà và bố mẹ đã trả cho bà U thì bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết lại.

Nay bà yêu cầu bà U trả lại 01 giấy chứng nhận QSD đất số M 604553 do UBND thị xã B cấp ngày 25/7/1998 đối với diện tích 21.003m2 thuc thửa 277 và 88 tờ bản đồ F134I tọa lạc tại phường L, thành phố B cho vợ chồng ông Q, bà H.

Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của mình đối với yêu cầu tính lãi trên số tiền 2.450.000.000 đồng thì bà Uchỉ yêu cầu bà H, ông Q và bà H1 phải trả lãi suất là 2,49%/tháng từ ngày 01/01/2021 đến ngày 08/9/2022. Còn phần tiền lãi từ ngày 22/01/2020 đến ngày 31/12/2020 thì bà U không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn giữ nguyên ý kiến không có thay đổi gì khác.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong qúa trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghỉ nghị án như sau: thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự qui định.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 463 Bộ luật dân sự 2015; Điều 24, Điều 27 Luật HNGĐ 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Minh Phượng U. Buộc bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc Q và bà Vũ Thị Phương Hồng H1 có trách nhiệm liên đới phải trả cho bà U số tiền vay gốc là 2.450.000.000 đồng và số tiền lãi là 1.236.260.000 đồng, tổng cộng là 3.686.260.000đ (Ba tỷ sáu trăm tám mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Buộc bà Vũ Minh Phượng U trả cho ông Vũ Ngọc Q, bà Nguyễn Thị H trang 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 604553 do UBND thị xã B (nay là thành phố B) cấp ngày 25/07/1998 cho bà Nguyễn Thị H.

Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà U về việc buộc bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc Q và bà Vũ Thị Phương Hồng H1 liên đới trả số tiền lãi là 2.49%/tháng từ ngày 22/01/2020 đến ngày 31/12/2020.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí trên số tiền phải trả theo quy định của pháp luật. Do ông Q, bà H là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật, buộc chị H1 phải chịu tiền án phí là 35.242.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa căn cứ vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà Vũ Minh Phượng U yêu cầu bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc Q và bà Vũ Thị Phương Hồng H1 trả số tiền vay nợ là 2.450.000.000 đồng và lãi phát sinh. Do vậy, xác định đây là tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn cư trú tại số 81 P và số 91 đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Vũ Minh Phượng U thống nhất rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc tính lãi trên khoản nợ 2.450.000.000 đồng từ ngày 22/01/2020 đến ngày 31/12/2021 nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà U.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Đối với nợ gốc: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự trình bày thống nhất với nhau như sau: Vào các ngày 26/3/2019 bà U có cho bà H, bà H1 vay số tiền 2.420.000.000 đồng và bà H vay số tiền 210.000.000đ, việc vay tiền có lập 02 giấy vay, trong đó 01 giấy vay số tiền 2.420.000.000 đồng do bà H1 trực tiếp viết và bà H1 cùng bà H có ký, ghi rõ họ tên phía bên vay, thời hạn vay từ ngày 26/3/2019 đến ngày 30/3/2019 và 01 giấy vay số tiền 210.000.000 đồng do bà U viết và bà H có ký, ghi rõ họ tên phía bên vay, thời hạn vay từ ngày 26/3/2019 đến ngày 05/4/2019, lãi suất thỏa thuận ghi trong giấy là 03%/tháng. Việc vay tiền này ông Q có biết và có viết giấy ủy quyền cho bà H vay tiền của bà U, đồng thời sau đó ông Q có viết giấy khất nợ với bà U. Đối với giấy vay số tiền 210.000.000 đồng chỉ có một mình bà H ký tên vay tiền nhưng bà H1 xác định khoản vay này là vay chung với bà H vì mục đích chi tiêu trong gia đình và cùng có trách nhiệm liên đới đối với khoản vay này.

Ngoài số tiền nêu trên thì giữa bà U và bà H1 có xác nhận vào ngày 02/4/2019 bà U có cho bà H1 vay số tiền 1.550.000.000 đồng, việc vay tiền có lập giấy tờ, giấy do bà H1 trực tiếp viết và ký, ghi rõ họ tên phía bên vay, thời hạn vay từ ngày 02/4/2019 đến ngày 03/4/2019, lãi suất thỏa thuận ghi trong giấy là 03%/tháng.

Lời trình bày của các đương sự là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, căn cứ vào Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử công nhận những tình tiết các đương sự trình bày nêu trên là sự thật. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định các khoản vay 2.630.000.000đ của bà H1, bà H và khoản vay riêng của bà H1 1.550.000.000đ là có thật.

Bị đơn bà H, ông Q và bà H1 cho rằng không nợ nguyên đơn tổng số tiền 5.000.000.000đ, đồng thời đã trả 3.550.000.000đ cho khoản vay 2.630.000.000đ ngày 26/03/2019 nên không còn nợ nguyên đơn khoản tiền nào. Để chứng minh phía bị đơn cung cấp là 01 giấy ghi ngày 22/11/2020 cho rằng đã trả nguyên đơn 2.550.000.000đ cho khoản vay 2.630.000.000đ vào ngày 26/03/2019 còn các nội dung khác trong giấy này bị đơn không biết và không thừa nhận thấy rằng: Các đương sự thừa nhận tại buổi làm việc ngày 22/11/2020 có bà U và bà H1 cùng tham gia, tính nợ, nội dung tờ giấy ngày 22/11/2020 ghi “Tính sổ đến ngày 22/01/2020 cô H và C. H1 còn nợ V tổng cộng 5.000.000.000đ (Năm tỷ đồng)”. Như vậy nội dung giấy ghi là tính nợ chung chứ không có nội dung nào là tính riêng cho khoản vay ngày 26/03/2019; số tiền 5.000.000.000đ trong tờ giấy này cũng phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn là tính gốc và lãi của các khoản nợ như sau: Đối với số tiền 2.630.000.000đ tính lãi từ ngày 26/03/2019 đến ngày 22/01/2020 với lãi suất 02%/tháng là: 2.630.000.000đ x 02%/tháng x 10 tháng = 526.000.000đ (Năm trăm hai mươi sáu triệu đồng). Đối với số tiền 1.550.000.000đ tính lãi từ ngày 02/04/2019 đến ngày 22/01/2020 với mức lãi suất 02%/tháng là: 1.550.000.000đ x 02%/tháng x 9 tháng 15 ngày = 294.500.000đ (Hai trăm chín mươi tư triệu năm trăm ngàn đồng). Cộng gộp cả gốc và lãi của 02 khoản vay nêu trên là: 2.630.000.000đ + 1.550.000.000đ + 526.000.000đ + 294.500.000đ = 5.000.500.000đ, làm tròn là 5.000.000.000đ, trừ đi số tiền mà bà H1, bà H đã trả là 2.550.000.000đ thì còn nợ lại 2.450.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng). Ngoài ra, từ khi chốt nợ đến nay bà H, ông Q và bà H1 cũng không có ý kiến phản đối nào về nội dung chốt nợ của bà U. Xét lời khai của nguyên đơn phù hợp với các chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp nên có cơ sở chấp nhận, phía bị đơn là người xuất trình tờ giấy ngày 22/11/2020 nhưng chỉ thừa nhận nội dung đã trả 2.550.000.000đ, còn các nội dung khác trong tờ giấy này đều phản đối là không có cơ sở chấp nhận.

Đi với việc bị đơn bà H, bà H1 trình bày đã trả cho nguyên đơn tổng số tiền là 3.550.000.000đ cho khoản vay 2.630.000.000đ ngày 26/03/2019 cụ thể như sau: Lần thứ nhất vào ngày 26/03/2019 trả 1.000.000.000đ, lần thứ hai vào 10/04/2020 trả 100.000.000đ, lần thứ 3 vào ngày 21/05/2020 trả 700.000.000đ (Bảy trăm triệu đồng) và lần thứ 4 vào ngày 22/07/2020 trả số tiền 1.750.000.000đ thì thấy rằng: Khoản tiền 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng) bị đơn không có chứng cứ gì chứng minh đã trả cho nguyên đơn, ngoài ra người đại diện theo ủy quyền của bà H, ông Q trình bày trả cho nguyên đơn vào ngày 27/3/2019 còn bà H1 lại trình bày trả vào ngày 26/3/2017 như vậy là có sự mâu thẫn, mặt khác nguyên đơn không thừa nhận nên không có cơ sở xem xét chấp nhận. Đối với số tiền 2.550.000.000đ của 03 lần trả các ngày 10/04/2020, ngày 21/05/2020, ngày 22/07/2020 phía bị đơn xuất trình 01 tờ giấy do nguyên đơn viết ngày 22/11/2020 nội dung thể hiện nguyên đơn đã nhận 2.550.000.000đ, phía nguyên đơn thừa nhận có nhận tiền từ bà H1 tổng số tiền 2.550.000.000đ nhưng nguyên đơn trình bày ngày 22/11/2020 nguyên đơn và bà H1 thống nhất cấn trừ cụ thể, khoản vay riêng 1.550.000.000đ của bà H1 trừ nợ trước gồm gốc là 1.550.000.000đ + 294.000.000đ tiền lãi là 1.844.000.000đ (Một tỷ tám trăm bốn mươi bốn triệu đồng). Số tiền còn lại của khoản đã trả là 2.550.000.000đ – 1.844.000.000đ = 706.000.000đ (Bảy trăm lẻ sáu triệu đồng) trừ vào tiền lãi và gốc của khoản vay 2.630.000.000đ vay chung của ông Q, bà H và bà H1 cụ thể:

2.630.000.000đ gốc + 526.000.000đ lãi – 706.000.000đ = 2.450.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng). Xét thấy nguyên đơn, bị đơn đều trình bày khi đi trả số tiền 2.550.000.000đ đều do bà Vũ Thị Phương Hồng H1 mang tiền trực tiếp trả cho bà U do đó nguyên đơn trừ tiền nợ riêng của bà H1 trước là phù hợp, đồng thời bà H, bà H1 cũng không có chứng cứ chứng minh việc trả 2.550.000.000đ là trả cho khoản vay riêng 2.630.000.000đ. Do đó lời trình bày của nguyên đơn về việc trả 2.550.000.000đ là phù hợp với chứng cứ mà các bên cung cấp.

Đi với khoản nợ riêng của bà H1 là 1.550.000.000 đồng thì bà H1 cho rằng sau khi đáo hạn Quỹ tín dụng thì bà đã trả tiền cho bà U vào ngày 02/04/2019 tại Quỹ tín dụng nhân dân phường B, khi trả tiền có bà L và 02 bảo vệ của Quỹ tín dụng chứng kiến. Tuy nhiên, bà H1 không biết 02 bảo vệ đó là ai nên Tòa án không tiến hành làm việc được, còn bà Ltrình bày ngày 02/4/2019 bà có nhìn thấy bà H1 trả tiền cho bà U tại Quỹ tín dụng B’Lao nhưng không biết cụ thể bà H1 trả bao nhiêu tiền. Tòa án cũng tiến hành xác minh tại Quỹ tín dụng B về khoản tiền vay của bà H1 thì đại diện Quỹ tín dụng B cho biết “ngày 03/4/2018 bà H1 có vay Quỹ tín dụng B 1.500.000.000 đồng, đến ngày 02/4/2019 thì tất toán. Sau đó đến ngày 03/4/2019 bà H1 vay lại số tiền 1.500.000.000 đồng, đến ngày 03/6/2019 bà H1 tất toán khoản vay trên. Việc bà H1 sau khi nhận tiền ở Quỹ tín dụng giao cho ai thì đại diện Quỹ tín dụng không chứng kiến nên không biết”. Căn cứ vào lời khai của bà H1 và lời khai của bà Lcũng như đại diện Quỹ tín dụng B thì Hội đồng xét xử thấy rằng ngày 03/4/2019 bà H1 mới vay lại số tiền 1.500.000.000 đồng ở Quỹ tín dụng nhưng bà H1 lại trình bày trong ngày 02/4/2019 bà đã vay được tiền ở Quỹ tín dụng để trả cho bà U là không phù hợp. Mặt khác bà H1 không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh đã trả khoản tiền 1.550.000.000 đồng cho bà U vào ngày 02/4/2019, bản thân bà U cũng không thừa nhận việc bà H1 trả khoản tiền 1.550.000.000 đồng vào ngày 02/4/2019 vì vậy lời khai của bà H1 không có cơ sở và lời khai của nguyên đơn là phù hợp với tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn xuất trình và với tài liệu, chứng cứ Tòa án đã thu thập được.

Do đó có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tính đến ngày 22/11/2020 bị đơn bà H, bà H1 còn nợ nguyên đơn số tiền gốc là 2.450.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng).

[2.2]. Về lãi suất: Bị đơn bà H, ông Q, bà H1 trình bày quá trình vay tiền của bà U bị đơn đã trả lãi cho bà U với số tiền 3.000đ/1 triệu/1 ngày với tổng số tiền là 920.000.000 đồng từ ngày 26/3/2019 đến ngày 22/7/2020.Tuy nhiên, nếu bị đơn trả lãi 3.000đ/ngày/triệu thì số tiền lãi bị đơn phải trả cho nguyên đơn là nhiều hơn số tiền 920.000.000 đồng (là số tiền bị đơn đã trả lãi cho nguyên đơn trên số nợ 2.630.000.000 đồng) như vậy lời khai của bị đơn có sự mâu thuẫn với nhau. Mặt khác, bị đơn không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh về việc trả lãi như nêu trên.

Nguyên đơn không thừa nhận việc tính lãi như bị đơn trình bày vì lãi suất của các khoản vay theo thỏa thuận giữa hai bên là 03%/tháng và có thể hiện trong các giấy vay tiền do nguyên đơn cung cấp. Do đó, có cơ sở khẳng định lãi suất thỏa thuận của các khoản vay là 03%/tháng. Tuy nhiên mức lãi suất 03%/tháng các bên thỏa thuận vượt quá quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự và nay nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi suất quá hạn là 2,49%/tháng là có cơ sở và được chấp nhận, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 468 BLTTDS.

Về thời điểm bắt đầu tính lãi nguyên đơn yêu cầu tính lãi từ ngày 22/01/2020 đến thời điểm xét xử sơ thẩm là ngày 08/9/2022 với lãi suất là 2,49%/tháng. Nhưng nay nguyên đơn thay đổi yêu cầu tính lãi của mình và chỉ yêu cầu tính lãi từ ngày 01/01/2021 đến ngày 08/9/2022 là có cơ sở chấp nhận.

Việc tính lãi cụ thể như sau: 2.450.000.000đ x 2,49%/tháng x 20 tháng 08 ngày = 1.236.260.000 đồng.

Tng cộng gốc và lãi tính đến ngày 08/9/2022 là 3.686.260.000đ (Ba tỷ sáu trăm tám mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

[2.3]. Về trách nhiệm liên đới: Quá trình vay và trả tiền mặc dù ông Q không trực tiếp đi vay tiền, trả tiền cho bà U. Tuy nhiên, bà H, bà H1 và ông Q đều thừa nhận việc bà H, bà H1 vay số tiền 2.630.000.000đ để đáo hạn tại Quỹ tín dụng và chi tiêu sinh hoạt trong gia đình, đồng thời ông Q có viết giấy ủy quyền và cam kết trả nợ cho bà U nên cần buộc ông Q có trách nhiệm liên đới trả nợ cho bà U số tiền gốc 2.450.000.000đ và tiền lãi là phù hợp.

[2.4]. Đối với 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 604553 do UBND thành phố Bảo Lộc cấp ngày 25/07/1998 cho bà Nguyễn Thị H, đây là giấy tờ bà H giao cho bà U để làm tin nên buộc bà U phải trả cho bà H, ông Q 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là phù hợp.

[3]. Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

[4]. Về án phí: Yêu cầu của bà U được chấp nhận một phần. Ông Q, bà H là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí do đó được miễn án phí theo qui định. Bà H1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 , Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự - Căn cứ Điều 288, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 24, Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ cầu khởi kiện của bà Vũ Minh Phượng U. Buộc bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc Q và bà Vũ Thị Phương Hồng H1 có trách nhiệm liên đới trả cho bà U số tiền vay gốc là 2.450.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng) và lãi phát sinh từ ngày 01/01/2021 đến thời điểm xét xử sơ thẩm là 1.236.260.000đ (Một tỷ hai trăm ba mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng).

Buộc bà Vũ Minh Phượng U trả cho ông Vũ Ngọc Q, bà Nguyễn Thị H 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 604553 do UBND thị xã Bảo Lộc (nay là thành phố Bảo Lộc) cấp ngày 25/07/1998 cho bà Nguyễn Thị H.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Minh Phượng U về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc Q và bà Vũ Thị Phương Hồng H1 trả tiền lãi từ ngày 22/01/2020 đến ngày 31/12/2020 trên số tiền 2.450.000.000 đồng.

3. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Ngọc Q được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Bà Vũ Thị Phương Hồng H1 phải chịu 35.242.000đ (ba mươi lăm triệu hai trăm bốn mươi hai nghìn đồng).

Hoàn trả cho bà Vũ Minh Phượng U số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 56.102.000đ (năm mươi sáu triệu một trăm lẻ hai nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0018774 ngày 26/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bảo Lộc.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án số về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 30/2022/DS-ST

Số hiệu:30/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;