Bản án số về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 11/01/2022 TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:61/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/Hồ Tấn Đại Ng, Sinh ngày 03/02/1993, tại Đà Nẵng.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 44, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông.

Trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Hồ Tấn Đ và bà Nguyễn Thị Thúy H (đều còn sống); Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất; bị cáo chưa lập gia đình.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Năm 2015, bị TAND Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 45/2015/HSST ngày 19/12/2015 (chấp hành xong hình phạt tù của bản án theo Giấy chứng nhận số 308/GCN ngày 02/5/2021 và đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/6/2021 - Có mặt tại phiên tòa

2/Nguyễn Quang V, sinh ngày 01/02/1993, tại Đà Nẵng.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 24, phường H, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông.

Trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Ngọc T và bà Nguyễn Thị Th (đều còn sống); Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; có vợ là Thái Thị Hà Nh và 02 con (lớn nhất 05 tuổi, nhỏ nhất 02 tuổi).

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2013, bị Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 2266/QĐ-XPHC ngày 20/10/2013.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/6/2021 - Có mặt tại phiên tòa - Người tham gia tố tụng khác:

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/Ông Trần Văn T, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 63, phường K, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng.

2/ Ông Hồ Ngọc L, sinh năm: 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: 54 đường C, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, Tp Đà Nẵng.

3/ Ông Nguyễn Văn P, sinh năm: 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 11, phường H, quận Ngũ Hành Sơn, Tp Đà Nẵng.

4/ Bà Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm: 1966 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 31, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, Tp Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 45 phút ngày 20/6/2021, tại khu vực ngã tư đường H và đường N thuộc phường M, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, lực lượng 911 Công an thành phố Đà Nẵng và Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật tạm giữ của:

- Hồ Tấn Đại Ng.

+ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White horse, bên trong có 01 gói nylon có chứa 07 viên nén màu xanh và 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng (trong túi quần bên phải, phía trước của Ng; ký hiệu N1).

+ 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 070841X (ký hiệu N2).

- Nguyễn Quang V.

+ 01 ĐTDĐ hiệu iPhone màu trắng, gắn sim số 090255T (ký hiệu N3).

+ 01 xe mô tô hiệu Jupiter màu trắng bạc, BKS 43H1-Y88.

Tại thời điểm bắt quả tang còn có Trần Văn T (SN: 1993; trú: Tổ 63 phường K, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng), Hồ Ngọc L (SN: 1997; trú: Số 54 đường C, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) và Nguyễn Văn P (SN: 1993; trú: Tổ 11 phường H, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) đi cùng Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V.

* Theo Kết luận giám định số 171/GĐ-MT ngày 25/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận (BL: 12): Chia mẫu ký hiệu N1 thành: Mẫu N1a: Tinh thể rắn màu trắng trong 01 gói nylon; mẫu N1b: 07 viên nén màu xanh.

- Chất tinh thể rắn màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu N1a gửi giám định là ma túy, loại Ketamine; khối lượng mẫu tinh thể: 1,693 gam;

- Viên nén màu xanh trong mẫu niêm phong ký hiệu N1b gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu viên nén: 2,387 gam.

(Kèm theo kết luận giám định có: Biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định; 01 bì giấy niêm phong đựng mẫu hoàn trả: 1,498 gam mẫu tinh thể và 2,015 gam chất bột viên nén còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói mẫu).

Qua điều tra, Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

Khoảng 19 giờ 30 ngày 20/6/2021, Hồ Tấn Đại Ng, Nguyễn Quang V, Trần Văn T, Hồ Ngọc L và Nguyễn Văn P ngồi nhậu tại nhà của Nghĩa (tại K69/11 đường C, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng). Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, T nói với cả nhóm “anh em lâu ngày gặp lại kiếm chi chơi xí cho vui” thì V, L, P không nói gì, Ng nói “để mua nợ ma túy được không, sau khi sử dụng xong thì góp tiền trả sau” thì cũng không có ai trả lời nên Ng nghĩ mọi người đồng ý. Tiếp đó, Ng sử dụng điện thoại sim số 070841X gọi đến số 0796000091 của một thanh niên tên “Kạy” (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua mắc nợ 07 viên ma túy thuốc lắc và 01 gói ma túy Ketamine thì “Kạy” đồng ý bán và hẹn đến trước số nhà 95 đường H, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để mua bán ma túy. Ng nói V chở Ng đi có việc và Ng nói T, L, P đến khu vực ngã tư đường H- Ngũ Hành Sơn đứng đợi.

Nguyễn Quang V điều khiển xe mô tô hiệu Jupiter màu trắng bạc, BKS 43H1- Y88 chở Hồ Tấn Đại Ng đến điểm hẹn gặp “Kạy” mua mắc nợ 07 viên thuốc lắc và 01 gói ma túy Ketamine được bỏ trong 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White horse (chưa biết giá tiền và chưa đưa tiền). Sau khi mua được ma túy, Ng cất giấu vào trong túi quần rồi cả hai đến khu vực ngã tư đường H - Ngũ Hành Sơn gặp T, P và L đang đứng đợi để chuẩn bị đi vào Quảng Nam tìm địa điểm sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.

Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V khai nhận hành vi cùng nhau đi mua ma túy nhằm mục đích để cả nhóm sử dụng. Số lượng, loại ma túy là do Ng tự quyết định mua. Ng, V không có bàn bạc, thỏa thuận về việc chuẩn bị ma túy, dụng cụ sử dụng, địa điểm sử dụng cũng như việc góp tiền mua ma túy sử dụng với T, P, L.

Kiểm tra nhanh ma túy đối với Hồ Tấn Đại Ng, Nguyễn Quang V, Trần Văn T, Nguyễn Văn P kết quả âm tính với ma túy; riêng Hồ Ngọc L dương tính với ma túy, L khai nhận trước đó một ngày có sử dụng ma túy một mình tại nhà.

Quá trình điều tra, các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V đã khai nhận và thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKS-NHS, ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Hồ Tấn Đại Ng mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Áp dụng điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V mức án từ 15 đến 21 tháng tù.

Về trách nhiệm những người liên quan:

- Đối với Hồ Ngọc L có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trước đó một mình tại nhà, Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xử lý hành chính là có căn cứ.

- Đối với Trần Văn T, Nguyễn Văn P và Hồ Ngọc L không tham gia vào việc bàn bạc mua bán, cất giấu ma túy, tìm nơi sử dụng trái phép chất ma túy với Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ.

- Đối với đối tượng tên “Kạy” có hành vi bán trái phép chất ma túy nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch, nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng tiếp tục điều tra, xử lý sau.

* Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Tang vật của vụ án là mẫu hoàn trả lại sau giám định gồm: 01 bì giấy niêm phong đựng mẫu hoàn trả: 1,498 gam mẫu tinh thể và 2,015 gam chất bột viên nén còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói mẫu kèm theo kết luận giám định số 171/GĐ-MT ngày 25/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng.

- Đối với 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu đen, gắn sim số 070841X thu giữ của Hồ Tấn Đại Ng sử dụng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy. Đề nghị tịch thu sung công quỹ ĐTDĐ và tiêu hủy sim.

- Đề nghị trả lại cho chủ sở hữu do không liên quan đến hành vi phạm tội: là 01 ĐTDĐ hiệu iPhone màu trắng gắn sim số 090255T cho Nguyễn Quang V.

- Đối với xe mô tô hiệu Jupiter màu trắng bạc, BKS 43H1-Y88 do chị Nguyễn Thị Cẩm H (SN: 1966; trú: Tổ 31 P.M, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng) chủ sở hữu. Đầu tháng 6/2021, chị H cho Nguyễn Quang V mượn xe làm phương tiện đi lại, việc V sử dụng xe thực hiện hành vi phạm tội chị H không biết. Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã trả lại xe cho chị H là có căn cứ.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa vắng mặt những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn T, ông Hồ Ngọc L, ông Nguyễn Văn P, bà Nguyễn Thị Cẩm H không có lý do nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của ông T, ông L, ông P, bà H. Do đó, sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[1.2] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người chứng kiến không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V đều khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

[2.1.1] Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 20/6/2021, tại khu vực ngã tư đường H- đường N, thuộc thuộc phường M, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V có hành vi tàng trữ 1,693 gam ma túy loại Ketamine và 2,387 gam ma túy loại MDMA nhằm mục đích sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang.

[2.1.2] Hành vi trên của các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 59/CT-VKS-NHS, ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V thì thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V là nghiêm trọng. Mặc dù biết rõ tác hại của ma túy và pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn cố tình tàng trữ trái phép ma túy. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm tới chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe con người. Hành vi trên của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân trên địa bàn TP. Đà Nẵng nói chung và trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn nói riêng; hành vi phạm tội của các bị cáo Nghĩa và bị cáo V là rất nguy hiểm, xem thường pháp luật, các bị cáo phạm tội tàng trữ chất ma túy được quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt các bị cáo nghiêm minh, xử cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời răn đe các đối tượng khác có hành vi tương tự.

Bị cáo Ng và bị cáo V cùng thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thuộc trường hợp đồng phạm được quy định tại Điều 17 BLHS, tuy nhiên giữa các bị cáo không có kế hoạch trước, không có sự câu kết chặt chẽ về việc thực hiện hành vi phạm tội nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.

[2.3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của các bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, xét thấy bị cáo V có nhân thân xấu: Vào năm 2013, bị Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 2266/QĐ-XPHC ngày 20/10/2013. Tuy nhiên, bị cáo V đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và gia đình bị cáo V có thân nhân là người có công cách mạng; do vậy cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo V một phần hình phạt khi lượng hình.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, xét thấy bị cáo Ng có 01 tiền án là vào năm 2015, bị TAND Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 45/2015/HSST ngày 19/12/2015 (chấp hành xong hình phạt tù của bản án theo Giấy chứng nhận số 308/GCN ngày 02/5/2021 và đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm) nên đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ng. Tuy nhiên, bị cáo Ng đã thành khẩn khai báo nên cần áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo Ng một phần hình phạt khi lượng hình.

[2.4] Đối với đối tượng tên “Kạy” có hành vi bán trái phép chất ma túy cho V và Ng do chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

- Đối với Hồ Ngọc L có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trước đó một mình tại nhà, Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xử lý hành chính là có căn cứ.

- Đối với Trần Văn T, Nguyễn Văn P và Hồ Ngọc L không tham gia vào việc bàn bạc mua bán, cất giấu ma túy, tìm nơi sử dụng trái phép chất ma túy với Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ.

[2.5] Về vật chứng:

- Đối với mẫu vật chứng hoàn trả lại sau giám định là 01 bì giấy niêm phong đựng mẫu hoàn trả: 1,498 gam mẫu tinh thể và 2,015 gam chất bột viên nén còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói mẫu kèm theo Kết luận giám định số 171/GĐ- MT ngày 25/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng được giám định là ma túy và sim số 070841X thu giữ của Hồ Tấn Đại Ng dùng để liên lạc mua ma túy. Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di dộng hiệu Samsung màu đen thu giữ của Hồ Tấn Đại Ng dùng để liên lạc mua ma túy, đây là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội. Xét thấy cần tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di dộng hiệu iPhone màu trắng gắn sim số 090255T thu giữ của Nguyễn Quang V không liên quan đến hành vi phạm tội, xét cần trả lại cho bị cáo V là phù hợp.

- Đối với chiếc xe mô tô hiệu Jupiter màu trắng bạc, BKS 43H1-Y88 do chị Nguyễn Thị Cẩm H (SN: 1966; trú: Tổ 31 P.M, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng) chủ sở hữu. Đầu tháng 6/2021, chị H cho Nguyễn Quang V mượn xe làm phương tiện đi lại, việc V sử dụng xe thực hiện hành vi phạm tội chị H không biết. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm H là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[2.6] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

[2.7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Hồ Tấn Đại Ng và Nguyễn Quang V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ vào Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Tấn Đại Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Tấn Đại Ng 02 năm 06 tháng (hai năm sáu tháng) tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 20/6/2021.

-Căn cứ vào Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1; Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang V 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 20/6/2021.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

-Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bì giấy niêm phong đựng mẫu hoàn trả: 1,498 gam mẫu tinh thể và 2,015 gam chất bột viên nén còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói mẫu kèm theo Kết luận giám định số 171/GĐ-MT ngày 25/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng được giám định là ma túy và sim số 070841X thu giữ của Hồ Tấn Đại Ng.

-Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di dộng hiệu Samsung màu đen thu giữ của Hồ Tấn Đại Ng.

-Tuyên trả lại: 01 điện thoại di dộng hiệu iPhone màu trắng gắn sim số 090255T cho Nguyễn Quang V do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/12/2021.

Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Quang V và bị cáo Hồ Tấn Đại Ng mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 11/01/2022.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án số về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;