Bản án 99/2021/HS-ST ngày 25/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 99/2021/HS-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2021/TLST- HS ngày 15 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Văn S Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 01/01/1981 tại huyện T, tỉnh L;

Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện T, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Văn U, sinh năm 1941 và bà: Điêu Thị Y, sinh năm 1946; Có vợ là Lường Thị Ng, sinh năm 1985 và có 02 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 26/4/2019, Trương Văn S bị Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng về tội: “Đánh bạc” theo Bản án số 11/2019/HSST. Hiện bị cáo chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ hồi 13 giờ 30 phút ngày 31/3/2021 đến ngày 08/4/2021 bị khởi tố và tạm giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Than Uyên. (Có mặt).

Những người làm chứng:

1. Anh Tòng Văn Ngh, sinh năm 1990; Địa chỉ: Bản M, xã M, huyện T, tỉnh L. (Vắng mặt không có lý do).

2. Anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1994; Địa chỉ: Bản C, xã M, huyện T, tỉnh L. (Vắng mặt không có lý do).

1 3. Anh Lò Văn L, sinh năm 2001; Địa chỉ: Bản C, xã M, huyện T, tỉnh L.

(Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 30/3/2021, bị cáo Trương Văn S đi từ nhà tại bản N, xã M, huyện T lên bản Tu San, xã Tà Mung, huyện Than Uyên tìm mua Heroine, mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Tại bản Tu San, Trương Văn S gặp một người đàn ông dân tộc Mông không rõ nhân thân lai lịch. Qua nói chuyện, S đã hỏi mua được của người đàn ông dân tộc Mông đó 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine, S mang về nhà chia thành 10 gói nhỏ và sử dụng hết 01 gói. Số Heroine còn lại (09 gói), S gói chung vào 01 mảnh nilon màu hồng rồi cho vào bao thuốc lá Thăng Long cất giấu trên bàn tivi trong nhà không cho ai biết. Khoảng 11 giờ ngày 31/3/2021 , khi Trương Văn S đang ở bản Nà Khương, xã Mường Kim, huyện Than Uyên thì gặp Tòng Văn Ngh, sinh năm 1990, trú tại bản Mường 2, xã Mường Kim huyện Than Uyên và Hoàng Văn Q, sinh năm 1994, trú tại bản Chát, xã Mường Kim, huyện Than Uyên. Ngh và Q hỏi mua Heroine của S, Ngh đưa cho S 100.000 đồng. S nhận tiền rồi bảo Ngh, Q đứng ngoài đường đợi còn S đi về nhà lấy bao thuốc lá Thăng Long chứa 09 gói Heroine cho vào túi áo ngực bên phải quay lại nơi Ngh, Q đang đợi, mục đích để bán cho Ngh và Q 01 gói Heroine. Trên đường đến gặp Ngh và Q, tại bản Nà Dân, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, Trương Văn S bị Công an xã Mường Kim, huyện Than Uyên bắt quả tang, thu giữ trong túi áo ngực bên phải của S 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong chứa đựng 09 gói Heroine có tổng khối lượng 0,44 gam và số tiền 100.000 đồng do Trương Văn S bán Heroine mà có.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Trương Văn S còn tự thú về những lần phạm tội trước đó (trong tháng 3 năm 2021) mà bị cáo đã thực hiện, cụ thể như sau:

Lần 1: Cách ngày bị bắt (31/3/2021) khoảng 20 ngày, tại bản Nà Dân, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, bị cáo Trương Văn S bán cho Hoàng Văn Q và Lò Văn L 01 gói Heroine lấy 100.000 đồng.

Lần 2: Sau lần thứ nhất khoảng 05 ngày, Trương Văn S bán 01 gói Heroine cho Tòng Văn Ngh lấy 100.000 đồng.

Lần 3: Cách ngày bị bắt khoảng 10 ngày, S tiếp tục bán cho Hoàng Văn Q và Lò Văn L 01 gói Heroine lấy 100.000 đồng.

Về nguồn gốc Heroine bán cho Ngh, L và Q, bị cáo Trương Văn S khai đều đi lên bản Tu San, xã Tà Mung, huyện Than Uyên mua của một người đàn ông không rõ lai lịch mang về nhà chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. Bị cáo không nhớ mỗi lần mua bao nhiêu tiền, số tiền bán Heroine cho Q, L và Ngh bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên đã tiến hành triệu tập Hoàng Văn Q, Lò Văn L, Tòng Văn Ngh lấy lời khai. Tại cơ quan điều tra, Q, L, Ngh đều thừa nhận được rủ nhau góp tiền mua Heroine của Trương Văn S sử dụng. Lời khai của Q, L, Ngh hoàn toàn phù hợp với lời khai của Trương Văn S cùng tài liệu Cơ quan điều tra đã thu thập đượ c có trong hồ sơ vụ án.

Ngày 31/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên đã tiến hành trưng cầu người giám định Tư pháp để mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Trương Văn S gửi giám định. Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 57/KLGĐ ngày 31/3/2021 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Trương Văn S có khối lượng là 0,44 gam. Tại bản Kết luận giám định số 261/GĐ-KTHS ngày 05/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (Một) mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,37 gam Heroine, 10 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu, số tiền 100.000 đồng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long thu giữ của Trương Văn S hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.

Bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 12/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu truy tố bị cáo Trương Văn S về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại các điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Văn S từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong đựng 0,37 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện Than Uyên bên trong đựng 10 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 100.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trương Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trương Văn S khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản kết luận điều tra, bản cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 17 giờ ngày 30/3/2021, tại bản Tu San, xã Tà Mung, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, bị cáo Trương Văn S đã mua trái phép 01 gói Heroine của một người đàn ông không quen biết với giá 300.000 đồng, mục đích để s ử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được Heroine, Trương Văn S mang về nhà chia thành 10 gói nhỏ và đã sử dụng hết 01 gói. Đến ngày 31/3/2021, bị cáo Trương Văn S đã nhận tổng số tiền 100.000 đồng của Tòng Văn Ngh và Hoàng Văn Q, mục đích bán cho Ngh và Q 01 gói Heroine. Khi Trương Văn S chưa kịp bán Heroine cho Ngh và Q thì bị bắt quả tang thu giữ 09 gói Heroine trong túi áo ngực của Trương Văn S có tổng khối lượng 0,44 gam.

Tại cơ quan điều tra Trương Văn S còn tự thú, trong tháng 3 năm 2021 đã 03 lần bán trái phép Heroine cụ thể như sau: Lần 1: Trương Văn S bán cho Hoàng Văn Q và Lò Văn L 01 gói Heroine lấy 100.000 đồng. Lần 2: Trương Văn S bán cho Tòng Văn Ngh 01 gói Heroine lấy 100.000 đồng. Lần 3: Trương Văn S tiếp tục bán cho Hoàng Văn Q và Lò Văn L 01 gói Heroine lấy 100.000 đồng.

Về nguồn gốc Heroine, Trương Văn S khai đều đi lên bản Tu San, xã Tà Mung, huyện Than Uyên mua của một người đàn ông không rõ lai lịch mang về nhà chia thành nhiều gói nhỏ sử dụng và bán kiếm lời. Bị cáo không nhớ mỗi lần mua bao nhiêu tiền, số tiền bán Heroine cho Q, L và Ngh bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết.

Ngày 08/4/2021, Trương Văn S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Trương Văn S là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng. Do nghiện ma túy và muốn thu L bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Trương Văn S đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Bị cáo đã 04 lần, ở những thời điểm khác nhau bán trái phép chất ma túy thu L bất chính 400.000 đồng, trong đó có 03 lần bị cáo bán ma tuý cho hai người. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương do vậy cần thiết phải có mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Trương Văn S sinh ra tại huyện Than Uyên, trưởng thành xây dựng gia đình với chị Lường Thị Nguyện và có 02 con. Bị cáo không chịu khó làm ăn, lao động sản xuất, tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên bị cáo đã mắc tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy. Để có ma túy sử dụng cho nhu cầu của bản thân và thu L bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trương Văn S đã tự thú ra những lần mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo thực hiện, đồng thời, thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Do bị cáo Trương Văn S phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, bị cáo không có thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng còn lại của vụ án là 0,37 gam Heroine thu giữ của bị cáo Trương Văn S là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 10 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với số tiền 100.000 đồng là tiền bị cáo Trương Văn S bán trái phép chất ma tuý mà có nên cần tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trương Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Như vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên về mức hình phạt, xử lý vật chứng, án phí đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Trương Văn S khai mua của người không rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Hoàng Văn Q, Lò Văn L, Tòng Văn Ngh là những người đã mua Heroine của Trương Văn S, mục đích để sử dụng. Số Heroine mua được Q, L, Ngh đã sử dụng hết. Cơ quan điều tra đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Hoàng Văn Q, Lò Văn L, Tòng Văn Ngh là đúng quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Trương Văn S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trương Văn S 08 (Tám) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2021.

[2] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong đựng 0,37 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện Than Uyên bên trong đựng 10 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long. Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng.

(Tình trạng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 7 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu).

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trương Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân cấp trên./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 99/2021/HS-ST ngày 25/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:99/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;