Bản án 99/2021/HS-PT ngày 23/02/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁNNHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 99/2021/HS-PT NGÀY 23/02/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 46/2021/TLPT-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Tạ Đăng B do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 312/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

TẠ ĐĂNG B, sinh năm 1955; giới tính: Nam; ĐKNKTT và nơi ở: quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa 10/10; con ông: Tạ Đăng H(đã chết) và bà Phạm Thị T(đã chết); vợ: Phan Thị Kim D, có 02 con sinh năm 1987 và 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Bị hại không kháng cáo:

Ông: Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1964; trú tại: quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 13/3/2020, Công an quận Bắc Từ Liêm nhận được đơn tố cáo của ông Nguyễn Đức Đ (SN: 1964; HKTT: Bắc Từ Liêm, Hà Nội) tố giác Tạ Đăng B có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 50.000.000 đồng của ông Đ thông qua việc làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Vật chứng thu giữ của ông Nguyễn Đức Đ:

- 01 giấy vay tiền ngày 15/9/2018 của ông Tạ Đăng B;

- 01 giấy hẹn thanh toán tiền ngày 3/12/2019 của ông Tạ Đăng B.

- 01 USB Kingston 16GB có chứa 14 file ghi âm cuộc gọi.

Tại kết luận giám định số 3247/C09-P5 ngày 19/6/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an xác định: “Chữ ký, chữ viết đứng tên Tạ Đăng B trên các mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ ký, chữ viết của Tạ Đăng B trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M5 do cùng một người ký, viết ra.” Quá trình điều tra xác định:

Gia đình ông Nguyễn Đức Đ có thửa đất diện tích 132 m2 tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, đây là loại đất phi nông nghiệp, thửa đất này ông Đ mua từ năm 2000 và hiện chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Gia đình ông có nhu cầu làm sổ đỏ và qua giới thiệu thì ông Đ quen Tạ Đăng B, B nói với ông Đ bản thân biết quy trình và có thể làm sổ đỏ, thời gian làm từ 3 tháng đến 3 tháng rưỡi là hoàn thành và chi phí “bôi trơn” là 85.000.000 đồng (không bao gồm chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất), ông Đ đồng ý, ngày 15/9/2018, ông Đ đưa cho B 85.000.000 đồng là phí dịch vụ còn B phải viết giấy xác nhận khoản tiền này dưới hình thức là giấy vay tiền (thực tế giữa B và ông Đ không có quan hệ vay mượn nào cả). Khoảng 1 tuần sau, B có qua nhà ông Đ nói còn thiếu tiền để nộp hồ sơ nên yêu cầu ông Đ đưa thêm 3.700.000 đồng và số tiền này B không viết giấy tờ. Đến giữa tháng 12/2018, vẫn chưa thấy B làm sổ, ông Đ tìm thì B lẩn tránh và nói sổ đỏ của ông Đ sắp xong và bảo gia đình ông Đ tiếp tục đợi. Sau nhiều lần thúc giục thì B trả lời là sổ đỏ thửa đất nhà ông Đ không làm được. Ông Đ đã yêu cầu B hoàn trả lại toàn bộ số tiền mà ông đã đưa. Tuy nhiên đến khoảng tháng 7, 8/2019, B mới trả lại cho ông Đ số tiền 45.000.000 đồng, số tiền còn lại B trốn tránh không trả nên ông Đ đến cơ quan công an để trình báo sự việc như đã nêu trên.

Tại cơ quan điều tra, B khai đã nhận số tiền 88.700.000 đồng để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đ. Sau khi nhận tiền, B đã đến Công ty địa chính Hà Nội (địa chỉ: Bà Đình, Hà Nội) để làm hồ sơ kỹ thuật thửa đất. Tại đây, B đã nộp toàn bộ giấy tờ của ông Đ đưa thông qua một người phụ nữ tên “Soan” đang công tác tại đây. Sau đó 5 ngày, B nhận được hồ sơ kỹ thuật thửa đất có dấu đỏ của công ty thì B tiếp tục đến Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội, chi nhánh Bắc Từ Liêm để nộp hồ sơ nhưng sau nhiều tháng B vẫn không nhận được kết quả. Sau đó, ông Đ giục nhiều lần, B nói không làm được sổ đỏ nữa và hứa sẽ trả lại tiền. Tuy nhiên tính đến thời điểm ông Đ làm đơn tố cáo thì B vẫn còn thiếu lại 43.700.000 đồng. B không xác định được nhân thân, lai lịch của người phụ nữ tên “Soan” cũng như không giao nộp được cho cơ quan điều tra các giấy tờ liên quan đến việc giao nhận hồ sơ tại văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội.

Qua xác minh tại Công ty địa chính Hà Nội thì CQĐT xác nhận từ năm 2018 đến nay trong công ty không có bất kỳ ai tên “Soan” hay “Xoan” đang làm việc theo như lời khai của B.

Tiến hành xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội, chi nhánh Bắc Từ Liêm xác định: văn phòng chỉ xử lý các hồ sơ đối với các thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối với những thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu như ông Đ, văn phòng không tiếp nhận xử lý mà phải nộp hồ sơ ở UBND phường.

Quá trình điều tra tại UBND phường Minh Khai, Bắc Từ Liêm, Hà Nội và tại phòng Tài nguyên môi trường, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội đều không nhận được hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất của ông Đ hay anh Nguyễn Đức U.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra B đã bồi thường cho ông Đ số tiền còn lại là 43.700.000 đồng. Ông Đ đã nhận đủ tiền và không yêu cầu bồi thường dân sự.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 312/2020/HSST ngày 25/11/2020 Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Tạ Đăng B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 2 điều 174; điểm b,s khoản 1 Điều 51; điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Tạ Đăng B 26 (hai sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/11/2020 bị cáo Tạ Đăng B có đơn kháng cáo xin được giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và xin hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm hình phạt và cải tạo ngoài xã hội vì bị cáo có thời gian tham gia quân đội và được nhiều giấy khen, hiện bị cáo cũng đã lớn tuổi và đang bị bệnh tiểu đường.

Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:

Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Tạ Đăng B về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm c khoản 2 điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như bản án sơ thẩm đã nhận định, ngoài ra sau khi xử sơ thẩm người bị hại có đơn xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo cũng xuất trình tài liệu tham gia quân đội và được khen thưởng. Vì vậy có căn cứ đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã xét xử bị cáo Tạ Đăng B về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo hội đồng xét xử thấy rằng:

Tòa án sơ thẩm đã xác định các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng như thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; đã bồi thường khắc phục hậu quả và áp dụng các điểm b, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Sau khi tòa án sơ thẩm xử, người bị hại là ông Nguyễn Đức Đ có đơn gửi tòa án Hà Nội đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo B. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng thêm cho bị cáo theo khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo là người cao tuổi, có nhân thân tốt nên hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải phạt tù giam cách ly khỏi xã hội mà áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ tác dụng cải tạovà giáo dục bị cáo.

Giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm, vì vậy cần sửa án sơ thẩm về phần án phí.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tạ Đăng B. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 312/2020/HSST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Áp dụng: Điểm c khoản 2 điều 174; điểm b,s khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt : Tạ Đăng B 26(hai sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 52(năm hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo về ủy ban nhân dân phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm và miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 99/2021/HS-PT ngày 23/02/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:99/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;