Bản án 98/2020/HS-ST ngày 25/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 98/2020/HS-ST NGÀY 25/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2020/TLST- HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Đ.Đ.H1; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1997; Nơi sinh: Tp.Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 116/4 Khu phố 7, phường H.T, Quận 12, Tp.Hồ Chí Minh; Chỗ ở trước ngày bị bắt: 46/4 HT13, tổ 30, Khu phố 3, phường H.T, Quận 12, Tp.Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; con ông: Đ.Đ.H2; Con bà: N.T.N; Vợ, con: chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/02/2020 đến ngày 28/02/2020 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đ.Đ.H1 là đối tượng nghiện ma túy nên mua ma túy của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) ở khu vực xã Xuân Thới Đông về cất giấu để sử dụng. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 19/02/2020, H1 điều khiển xe máy biển số 59G1-179.02 đến khu vực xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn mua 06 gói ma túy đá với giá 1.000.000 đồng rồi cất giấu vào trong túi quần bên phải phía trước. Trên đường về đến bãi đất trống thuộc tổ 10, ấp Xuân Thới Đông 3, xã Xuân Thới Đông thì bị Công an xã tuần tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang (BL số 30-32).

1 Kết luận giám định số 340/KLGĐ-H ngày 24/02/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói nylon bên trong có chứa 06 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 1,2067g loại Methamphetamine (BL số 60).

Tại Cơ quan điều tra, Đ.Đ.H1 khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon bên trong có chứa 06 gói nylon chứa tinh thể không màu;

- 01 ĐTDĐ Samsung J2;

- 01 xe gắn máy biển số 59G1-179.02. Qua xác minh xe máy này do Đ.Đ.H3 là anh trai Đ.Đ.H1 đứng tên chủ sở hữu. Ngày 19/02/2020, H3 cho H1 mượn để đi chơi, không biết việc H1 phạm tội. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại cho H3 để tiếp tục quản lý;

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho H1, do không xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 92/CT-VKS-HS ngày 21/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Đ.Đ.H1, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói nylon bên trong có chứa 06 gói nylon chứa tinh thể không màu.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 ĐTDĐ Samsung J2 Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đ.Đ.H1 phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra bị cáo Đ.Đ.H1 khai trùng khớp với bản cung, thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, đây là bài học cho bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 19/02/2020, bị cáo Đ.Đ.H1 trên đường đến bãi đất trống thuộc tổ 10, ấp Xuân Thới Đông 3, xã Xuân Thới Đông có hành vi cất giấu 1,2067g Ma túy loại Methamphtamine mục đích để sử dụng. Công an xã tuần tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang cùng với tang vật.

Hành vi đó của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật cần phải xử lý nghiêm. Hành vi nêu trên của Đ.Đ.H1 có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 BLHS quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, Bị cáo không bị oan sai.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hì nh sự:

Bị cáo Đ.Đ.H1 sinh ra lớn lên tại Tp. Hồ Chí Minh và được gia đình nuôi ăn học hết 10/12 sau đó đi làm giúp gia đình. Ngày 19/02/2020 Bị cáo bị Công an tuần tra bắt quả tang về hành vi Cất giấu trái phép chất ma túy. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Hóc Môn ra Quyết định khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giam đối với bị cáo Đ.Đ.H1 về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Bị cáo nghiện ma túy từ tháng 01/2020 cho đến ngày bị bắt.

Hành vi cất giấu trái phép ma túy nhằm mục đích sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác nhưng do bị cáo nghiện ma túy và thiếu ý thức chấp hành pháp luật do đó bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng. Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ.

Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự gì, ngoài lần phạm tội này chưa phạm tội lần nào nên Hội đồng xét xử thấy nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và xem xét đưa ra một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của Bị cáo cũng như thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét hoàn cảnh gia đình Bị cáo khó khăn, bản thân Bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với Bị cáo.

[5]. Về vật chứng:

- 01 gói niêm phong số vụ 340 gồm 01 gói nylon bên trong có chứa 06 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 1,2067g loại Methamphetamine là vật nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu để hủy.

- 01 ĐTDĐ Samsung J2 có liên quan đến việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- 01 xe gắn máy biển số 59G1-179.02. Qua xác minh xe máy này do Đ.Đ.H3 là anh trai Đ.Đ.H1 đứng tên chủ sở hữu. Ngày 19/02/2020, H3 cho H1 mượn để đi chơi, không biết việc H1 phạm tội. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại cho H3 để tiếp tục quản lý (Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 13/5/2020). Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Các vấn đề khác:

Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo khai mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch ở khu vực ấp Xuân Thới Đông 3, xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh; Bị cáo không biết họ tên, địa chỉ nhà ở của người phụ nữa này; Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.

[7]. Về án phí:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo H1 phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đ.Đ.H1 phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo: Đ.Đ.H1 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 19/02/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

* Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số vụ 340 có khối lượng là 0,8684g loại Methamphetamine còn lại sau khi gửi giám định.

* Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 ĐTDĐ Samsung J2.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn.)

3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo H1 phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 98/2020/HS-ST ngày 25/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;