TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 98/2020/HSST NGÀY 19/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 97/2020/TLST- HS ngày 01 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2020/QĐXXST- HS ngày 06/8/2020, đối với bị cáo:
1. NGUYỄN TẤN T- Sinh năm: 1988 - tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú: Khu phố H1, thị trấn C, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc:
Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn:
08/12 ; Nghề nghiệp : thợ sơn; Con ông: Nguyễn S (đã chết) và bà : Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1962 ; Vợ, con: chưa; Tiền sự: không; Tiền án:
+ Tại bản án số 42/2011/HSST Ngày 10/6/2011, bị Tòa án nhân dân huyện X xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/9/2015 tại trại giam Thủ Đức:
+ Tại bản án số 91/2017/HSST ngày 17/11/2017, bị Tòa án nhân dân huyện X xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/11/2019 tại trại giam Sông Cái, chưa được xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/2/2020, đến ngày 28/02/2020 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ - Công an TP. P. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. TRỊNH THẾ HOÀN V (Tên gọi khác: Biêu) - Sinh năm: 1993 - tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú : Khu phố X1, thị trấn C, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Hoa; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn:
11/12; Nghề nghiệp: không; Con ông : Trịnh Thế A, sinh năm: 1961và bà : Nguyễn Thị H, sinh năm 1961 ; Vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo TRỊNH THẾ HOÀN V bị tạm giữ từ ngày 19/02/2020, đến ngày 28/02/2020 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam”, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ - Công an thành phố P. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ 30’ ngày 19/02/2020, NGUYỄN TẤN T cùng TRỊNH THẾ HOÀN V đang điều khiển xe mô tô biển số 86B2 - 318.78 lưu thông đến khu vực hẻm 96/2 đường Nguyễn Tương (thuộc khu phố 7, phường P1, thành phố P) thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường P1 thành phố P kiểm tra, phát hiện, thu giữ các vật chứng nghi là chất ma túy gồm:
Thu giữ của :
- 01 gói nylon không màu, một đầu có nhíp kéo màu đỏ, kích thước (4 x 7)cm, thu giữ trong túi quần bên phải của Thời, bên trong có chứa: 03 viên nén hình chữ nhật màu xanh lá cây, một mặt có chữ LV lồng vào nhau và có một gạch dọc (ký hiệu M1 khi giám định); 01 viên nén hình tròn màu xanh dương, một mặt có chữ LV lồng vào nhau (ký hiệu M2 khi giám định);01 gói nylon không màu, một đầu có nhíp kéo màu đỏ, kích thước (4 x 7)cm, bên trong có 01 viên nén hình tròn màu xanh dương, một mặt có chữ LV lồng vào nhau (ký hiệu M3 khi giám định); 01 gói nylon không màu, một đầu có nhíp kéo màu xanh lá cây, kích thước (3,5 x 5,5)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M4 khi giám định); 01 gói nylon không màu, một đầu có nhíp kéo màu xanh lá cây, kích thước (2,5 x 4)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M5 khi giám định); 02 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước lần lượt (1,5 x 2)cm và (2 x x2,5)cm, bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M6 khi giám định):
Thu giữ của TRỊNH THẾ HOÀN V:
- 01 hộp chữ nhật, màu đen, trên nắp hộp có chữ Zippo, thu giữ trong túi áo khoác của V, bên trong có chứa: 02 gói nylon không màu, hàn kín, có nhíp kéo màu đỏ một đầu, kích thước (4 x 7)cm, bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M7 khi giám định); 02 gói nylon không màu có nhíp kéo màu đỏ một đầu, kích thước (2 x 2)cm, bên trong mỗi gói đều chứa 01 viên nén hình chữ nhật màu xanh lá cây, trên một mặt có chữ LV lồng vào nhau (ký hiệu M8 khi giám định- theo V khai nhận là thuốc lắc do NGUYỄN TẤN T cho V để sử dụng):
Đồng thời Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bình Thuận đã tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ của TRỊNH THẾ HOÀN V tại khu phố E, phường Thanh Hải, thành phố P, thì tiếp tục phát hiện trong ba lô màu đen được để ở vị trí gần nhà vệ sinh có chứa: 01 gói nylon không màu, có khóa kéo viền đỏ một đầu, kích thước (4 x 6)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M9 khi giám định); 01 gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước (1, 5 x 2)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M10 khi giám định);01 gói nylon không màu, được hàn kín, có kích thước (1 x 2)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M10 khi giám định); 08 gói nylon không màu, đều có khóa kéo viền đỏ một đầu, kích thước (1,5 x 2)cm, bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M11 khi giám định).
Theo các bị cáo khai nhận các vật chứng thu giữ là ma túy các bị cáo mua từ trước đó của những người lái xe thồ không rõ nhân thân, tại khu vực bến xe Miền Đông và Bến xe An Sương ở thành phố Hồ Chí Minh, mang về cất giấu nhằm mục đích để sử dụng cho việc nghiện ma túy của bản thân; T và V là bạn bè quen biết nhau nhưng khi mua ma túy về để tàng trữ thì các bị cáo hoàn toàn thực hiện độc lập, không liên quan gì đến nhau.
Tại kết luận giám định số 166/KLGĐ-PC09, ngày 25/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:
- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,0705 gam là MDMA:
- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,3038 gam là MDMA:
- Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 0,3363 gam là MDMA:
- Mẫu M4 gửi giám định có khối lượng 0,0341 gam là Ketamine:
- Mẫu M5 gửi giám định có khối lượng 1,9437 gam là Methamphetamine:
- Mẫu M6 gửi giám định có khối lượng 0,6986 gam; có chứa thành phần Methamphetamine và Ketamine:
- Mẫu M7 gửi giám định có khối lượng 8,9438 gam là Methamphetamine:
- Mẫu M8 gửi giám định có khối lượng 0,7053 gam là MDMA:
- Mẫu M9 gửi giám định có khối lượng 0,1663 gam là Methamphetamine:
- Mẫu M10 gửi giám định có khối lượng 0,5260 gam là Methamphetamine:
- Mẫu M10 gửi giám định có khối lượng 1,2578 gam là Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 64/CT- VKS-HS ngày 21 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo NGUYỄN TẤN T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm n, o, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Truy tố TRỊNH THẾ HOÀN V tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm n, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Ý kiến của các bị cáo tại phiên tòa: Các bị cáo đều xác định nội dung cáo trạng truy tố không oan sai và khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:Về tội danh và hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đã giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm n,o khoản 02 điều 249; điểm s khoản 01, điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo NGUYỄN TẤN Tmức án từ 06 năm đến 07 năm tù; áp dụng quy định tại điểm n khoản 02 điều 249; điểm s khoản 01, điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo TRỊNH THẾ HOÀN V mức án từ 06 năm đến 07 năm tù Về biện pháp tư pháp: đề nghị áp dụng quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và cân tiểu ly, tuyên trả lại số tiền 3.000.000đ thu giữ của bị cáo NGUYỄN TẤN Tdo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án.
Lời nói sau cùng các bị cáo đều trình bày: Bị cáo rất ân hận, mong Hội đồng xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]Về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh của bị cáo:
Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với kết quả giám định về vật chứng thu giữ là chất ma túy của Phòng kỹ thuật Hình sự của Công an tỉnh Bình Thuận, và các tài liệu chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:
NGUYỄN TẤN T và Trịnh Thế Hoàng V đều là người nghiện ma túy nên đã mua ma túy của những đối tượng không rõ nhân thân là các chất: MDMA, Ketamine, Methamphetamine, mang về cất giấu để sử dụng; Ngày 19/02/2020 NGUYỄN TẤN Tđã cho V 02 viên thuốc lắc màu xanh là MDMA, có khối lượng 0,7053 gam (ký hiệu là M8 khi giám định )và đến 15h30’ cùng ngày cả Thời và V đã bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phát hiện đang cất giấu ma túy trong người .
Ngoại trừ hành vi T đã tàng trữ và cho V ma túy là MDMA có khối lượng 0,7053 gam, các hành vi mua ma túy về tàng trữ nhằm mục đích sử dụng của T và V thực hiện trong vụ án đều thực hiện riêng biệt độc lập, không liên quan gì đến nhau, cả T và V trước khi cùng nhau lưu thông trên xe mô tô về thăm quê ở huyện B không hề biết việc cất giấu ma túy của mỗi người.
Do vậy tổng khối lượng chất ma túy tàng trữ của mỗi bị cáo, tính toán theo hướng dẫn tại Điều 4 Mục 1 phụ lục của Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ, thì số lượng cụ thể như sau:
Đối với Nguyễn Tấn T, tổng khối lượng ma túy NGUYỄN TẤN Ttàng trữ là:
1,0705gam MDMA + 0,3038gam MDMA + 0,3363gam MDMA + 0,0341gam Ketamine + 1,9437gam Methamphetamine + 0,6986gam Methamphetamine và Ketamine + 0,7053gam(Thời đã tàng trữ sau đó mang cho V, nên vẫn phải chịu trách nhiệm đối với số ma túy này) = 5,0923 gam.
Với định lượng ma túy tàng trữ như đã nêu trên hành vi của bị cáo NGUYỄN TẤN T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung hình phạt “ Có từ 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng … của các chất đó tương đương với tổng khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến đến điểm n khoản này” được quy định tại điểm n, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đồng thời bị cáo NGUYỄN TẤN T đã có tiền án tái phạm tại bản án số 91/2017/HSST ngày 17/11/2017, của Tòa án nhân dân huyện X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/11/2019, chưa được xóa án tích. Do vậy phạm tội thuộc trường hợp “ Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm o, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đối với TRỊNH THẾ HOÀN V tổng khối lượng ma túy tàng trữ là:
8,9438gam Methamphetamine + 0,7053gam MDMA( V đã tàng trữ sau khi được Thời cho để sử dụng) + 0,1663gam + 0,5260 gam Methamphetamine + 1,2578gam Methamphetamine = 11,5992 gam. Hành vi của Trịnh Thế Hoàng V cũng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định là tình tiết định khung hình phạt tại điểm n khoản 02, điều 249 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ptruy tố đối với các bị cáo với tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Đánh giá nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:
Trong vụ án các bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ độc lập nhau, không mang tính chất đồng phạm, do vậy mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm tương xứng với đối với định lượng ma túy mà mỗi bị cáo đã tàng trữ trong vụ án:
Bị cáo NGUYỄN TẤN T có nhân thân xấu, với hai lần bị xử phạt tù có thời hạn vế hành vi phạm tội về ma túy nhưng lại tiếp tục tái phạm nguy hiểm cũng về tội phạm ma túy, chứng tỏ bị cáo rất thiếu ý thức tuân thủ pháp luật, khả năng rèn luyệm cải tạo bản thân rất kém, do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm khắc.
Đối với bị cáo Trịnh Thế Hoàng V tuy nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự nhưng định lượng ma túy bị cáo tàng trữ trong vụ án có khối lượng lớn gấp đôi số lượng bị cáo Thời tàng trữ, hành vi mang tính nguy hiểm cao cho xã hội; Do vậy cũng cần xử lý nghiêm khắc tương xứng.
Xét các bị cáo đều nhận thức được việc pháp luật nhà nước xứ lý nghiêm khắc đối với tội phạm ma túy nhưng vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng lớn, hành vi mang tính nguy hiểm cao cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý về chất ma túy của nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay tệ nạn ma túy đang lây lan, gây ra những hậu quả nguy hại trong cộng đồng xã hội. Do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm khắc, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe giáo dục riêng và phòng chống tội phạm ma túy nói chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét các bị cáo đều thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự quy định tại điểm s, khoản 01, Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo phạm tội nhưng không có tình tiết tăng nặng.
[5]Về biện pháp tư pháp :
Đối với chất ma túy thu giữ trong vụ án, và các bao bì đóng gói chất ma túy còn lại sau khi giám định được niêm phong trong các phong bì số 166/1, phong bì số 166/2, phong bì số 166/3, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Đối với chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Raider biển số 86B2 - 318.78 (thu giữ từ Thời), Thời khai đã mua xe Suzuki Raider nêu trên của một người không rõ nhân thân, địa chỉ, quá trình mua bán không làm giấy tờ gì. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Pđang tạm giữ chiếc xe trên để xác minh làm rõ; Do vậy bị cáo Thời liên hệ với Cơ quan điều tra Công an thành phố Pđể được biết thông tin kết quả xử lý xe mô tô.
Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 01 cân tiểu ly, thu giữ của các bị cáo, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Đối với số tiền 3.000.000đ thu giữ của bị cáo Nguyễn Tấn T, không có căn cứ xác định tài sản này có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án, do vậy sẽ giao trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
*Căn cứ vào quy định tại điểm n, o khoản 02 điều 249, điểm s khoản 01 điều 51 Bộ luật hình sự.
*Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn T 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 19/02/2020.
*Căn cứ vào quy định tại điểm n khoản 02 điều 249, điểm s khoản 01 điều 51 Bộ luật hình sự.
*Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Thế Hoàng V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt: Bị cáo Trịnh thế Hoàng V 06 năm 06 tháng (sáu năm sáu tháng) tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 19/02/2020.
* Biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a khoản 01 điều 46, điểm a khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 02 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng hiện không có giá trị sử dụng và nhà nước cấm lưu hành gồm: chất ma túy thu giữ trong vụ án, và bao bì đóng gói còn lại sau khi giám định được niêm phong trong các phong bì số 166/1, phong bì số 166/2, phong bì số 166/3, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 01 cân tiểu ly, do không có giá trị sử dụng.
- Tuyên giao trả lại số tiền 3.000.000đ thu giữ của bị cáo NGUYỄN TẤN T do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án.
- Đối với xe mô tô hiệu Suzuki Raider biển số 86B2 - 318.78, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Pđang tạm giữ chiếc xe trên để xác minh làm rõ; Bị cáo NGUYỄN TẤN T liên hệ với Cơ quan điều tra Công an thành phố Pđể được biết thông tin kết quả xử lý xe mô tô.
(Vật chứng được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số 92 ngày 06/7/2020 và Giấy nộp tiền ngày 27/5/2020 vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P tại Kho bạc nhà nước tỉnh Bình Thuận)
* Về án phí: Tuyên buộc bị cáo NGUYỄN TẤN T và Trịnh Thế Hoàng V mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/8/2020).
Bản án 98/2020/HSST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 98/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về