Bản án 98/2020/HSST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 98/2020/HSST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyên Lục Ngạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 101/2020/HSST ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2020/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Huy T (Tên gọi khác: không); Sinh năm 1987. HKTT: thôn A, xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An; Tạm trú tại: thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Hà Huy T1, sinh năm 1962 và bà: Nguyễn Thị X, sinh năm 1963, đều trú tại thôn A, xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An; Vợ, con: Chưa có.

Tiền sự, tiền án: không.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Đình H - Sinh năm 1974 (Có mặt).

Trú quán: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21 giờ 10 phút ngày 23/9/2020, tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Lục Ngạn trong quá trình tuần tra tại khu vực Tổ dân phố L, thị trấn C, huyện Lục Ngạn, phát hiện và bắt quả tang Hà Huy T, sinh năm 1987, trú tại trú tại thôn A xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An; Đăng ký tạm trú: Thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang, hiện đang là công nhân của Công ty TNHH T có trụ sở tại thôn T, xã P, huyện L, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt quả tang T tự giác lấy từ trong túi quần bò phía trước bên trái đang mặc ra 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa, phía trên có đường viền màu đỏ bên trong có 04 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa phía trên có đường viền màu xanh. Có 03 túi bên trong mỗi túi đều chứa 01 viên nén màu hồng đỏ, một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” và 01 túi có chứa 02 viên nén màu hồng đỏ, một mặt của viên nén có chữ “WY” giao nộp cho Tổ công tác, ngay khi đó T khai nhận đó là ma túy tổng hợp Ketamine. Tổ công tác tiến hành niêm phong tại chỗ túi nilon bên trong có chứa các viên nén, nghi là ma túy do T giao nộp vào phong bì thư ký hiệu “QT” Sau đó Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hà Huy T, thu giữ vật chứng nghi là ma túy được niêm phong trong bì thư ký hiệu “QT”; và số tiền 530.000 đồng; 01 ví da màu nâu.

Cùng ngày 23/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lục Ngạn tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hà Huy T tại thôn T, xã P, huyện L. Quá trình khám xét không thu giữ được tài liệu đồ vật gì.

Ngày 24/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lục Ngạn ra Quyết định trưng cầu giám định đối với tang vật đã thu giữ nghi ma túy được niêm phong trong bì thư ký hiệu “QT”. Tại Kết luận giám định số 1381/KL-KTHS ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tình Bắc Giang kết luận:

“Trong 01 phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ:

- 03 (ba) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 03 (ba) túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,308 gam.

- 02(hai) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,208 gam.

Lời khai nhận của T phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ.

Tại bản cáo trạng số: 96/CT- VKS - HS ngày 23 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn đã truy tố bị cáo Hà Huy T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích tính chất vụ, giữ nguyên quyết định truy tố tại bản Cáo trạng đối với bị cáo và đề xuất ý kiến xử phạt bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hà Huy T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/9/2020.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo phạt tội không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT” có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang và 01 ví da màu nâu; Trả lại bị cáo số tiền 530.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

* Án phí: Áp dụng Điều 135,136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Các điều 3; 21; 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận đúng hành vi như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo không có ý kiến gì về kết luận giám định và thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng hành vi bị cáo đã thực hiện, về số tiền bị thu giữ là tiền do bị cáo lao động mà có nên bị cáo đề nghị được nhận lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đình H không có yêu cầu đề nghị gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Ngạn, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ căn cứ kết luận khoảng 21 giờ ngày 23/9/2020 tại Tổ dân phố L, thị trấn C, huyện L, Hà Huy T đang có hành vi tàng trữ 0,516 gam ma túy Ketamine, thì bị tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Lục Ngạn phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Hà Huy T đã có đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn truy tố bị cáo theo Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ra những tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội như gây mất trật tự trị an, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây bất bình và hoang mang trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung với loại tội phạm này.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, thấy rằng bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Nên cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian và cao hơn mức khởi điểm mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo phạm tội không nhằm mục đích hưởng lợi.

[6] Quá trình điều tra Hà Huy T khai nhận toàn bộ số ma túy nêu trên là do T mua của 01 người đàn ông không quen biết, không rõ họ và tên, địa chỉ cụ thể, chỉ đoán chừng người đó khoảng 35-40 tuổi cao khoảng 1m65 với số tiền 350.000 đồng; số ma túy thu giữ khi bắt quả tang là do T mua về để sử dụng cho bản thân. Do quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người đã bán ma túy cho T nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT” có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 ví da màu nâu ít giá trị bị cáo không đề nghị được nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 530.000 đồng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nay bị cáo có đề nghị được nhận lại nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Hà Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Hà Huy T 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/9/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT” có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang và 01 ví da màu nâu; Trả lại bị cáo số tiền 530.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

* Án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Các điều 3; 21; 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hà Huy T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 98/2020/HSST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;