TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 98/2020/HS-PT NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 66/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST ngày 23/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn B, sinh năm 1966, tại Tiền Giang; Nơi cư trú: Ấp L, xã Q, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T (chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1945; Bị cáo có vợ tên Võ Thị T1, sinh năm 1966 và 03 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án: Không, Tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; Bị cáo tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị hại (và người đại diện hợp pháp cho bị hại) nhưng không có kháng cáo; bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 04/10/2019, Nguyễn Văn B đến nhà tìm anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1980, ngụ ấp L, xã Q, huyện C để uống rượu nhưng không gặp. Bị cáo ra sau vườn thanh long thấy Nguyễn Thị Kim N sinh ngày 17/11/2003 (con ruột anh P) đang vuốt que thanh long. Bị cáo đến dùng tay phải ôm từ phía sau choàng qua cổ, tay trái kéo áo khoác của N đang mặc và luồng tay trái vào bên trong áo sờ vào vùng ngực của N, kéo N ngồi xuống. Lúc này có em Nguyễn Thị Như Y sinh ngày 04/8/2009 là em ruột của N phát hiện nên bị cáo bỏ đi về.
* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 146; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Ngoài ra bản án còn quyết định về phần án phí và thông báo về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
* Ngày 01 tháng 7 năm 2020, bị cáo Nguyễn Văn B có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cho rằng đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên được cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết.
Về nội dung: Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm kết luận bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự là có cơ sở. Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo B; đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo B 09 tháng tù là phù hợp, không nặng. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo bị cáo, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản án sơ thẩm. Vào khoảng 14 giờ ngày 04/10/2019, bị cáo đến nhà anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1980, ngụ ấp L, xã Q, huyện C. Khi ra sau vườn thanh long, thấy Nguyễn Thị Kim N sinh ngày 17/11/2003 (con ruột anh P) đang vuốt que thanh long, bị cáo đến dùng tay phải ôm từ phía sau choàng qua cổ, tay trái kéo áo khoác của N đang mặc và luồng tay trái vào bên trong áo sờ vào vùng ngực của N; đến khi em Nguyễn Thị Như Y sinh ngày 04/8/2009 là em ruột của N phát hiện thì bị cáo mới bỏ đi về. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm của bị hại; xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của bị hại; ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Hiện nay tình trạng dâm ô, xâm hại tình dục đối với trẻ em đang báo động, là hành vi đáng lên án. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc nhưng chỉ vì thỏa mãn nhu cầu, dục vọng thấp hèn của bản thân mà bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm; điều đó cho thấy ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần có mức án thật nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo. Án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đầy đủ và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là không nặng.
Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
[3] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn B. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Căn cứ khoản 1 Điều 146; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 98/2020/HS-PT ngày 14/09/2020 về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 98/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về