Bản án 98/2018/HNGĐ-ST ngày 26/07/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 98/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 673/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2018 về việc “Ly hôn”; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2018 giữa:

* Nguyên đơn : Bà Võ Nguyễn Thế V - Sinh năm 1986.

Địa chỉ: 151 T, phường P, Tp. N, tỉnh K

Có mặt tại phiên tòa.

* Bị đơn : Ông Trần Ngọc T - Sinh năm 1986.

Địa chỉ: 180 KB Lạc T, phường V, Tp. N, tỉnh K.

Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, bà Võ Nguyễn Thế V trình bày tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa:

Tôi và ông Trần Ngọc T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2013 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, Tp. N, tỉnh K. Trong quá trình chung sống, chúng tôi thường xảy ra nhiều mâu thuẫn do không cùng quan điểm, tôi và anh T đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng lớn. Chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 8/2017 cho đến nay. Tôi thấy không thể tiếp tục chng sống với anh T được nữa nên tôi xin được ly hôn.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Trần Minh Đ, sinh ngày 25/6/2014. Sau khi ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Minh Đ, yêu cầu anh T đóng cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 8/2018 cho đến khi cháu Trần Minh Đ đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, ông Trần Ngọc T trình bày tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa: Về quan hệ hôn nhân của chúng tôi đúng như cô Võ Nguyễn Thế V đã trình bày.

Cuộc sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng không lớn, nay cô V muốn kết hôn với người nước ngoài nên đã làm đơn xin ly hôn. Tôi còn tình cảm với cô Vàng nên không đồng ý ly hôn, tôi xin đoàn tụ.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Trần Minh Đ, sinh ngày 25/6/2014. Sau khi ly hôn tôi đồng ý giao con chung là cháu Trần Minh Đ cho cô V nuôi dưỡng, tôi đóng cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 8/2018 cho đến khi cháu Minh Đ đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: nhận thấy quan hệ hôn nhân giữa bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T không thể tiếp tục duy trì, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Võ Nguyễn Thế V được ly hôn với ông Trần Ngọc T. Giao con chung là cháu Trần Minh Đ cho bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; ông T đóng cấp dưỡng nuôi con do bà V 1.000.000đ/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 8/2018 cho đến khi cháu Minh Đ đủ 18 tuổi. Tài sản chung các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Án phí: Bà Võ Nguyễn Thế V tự nguyện nộp án phí HNGĐ - ST thay cho phần của ông T. Ông T phải đóng án phí DSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghe ý kiến trình bày của nguyên đơn và xem xét các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Việc bà Võ Nguyễn Thế V khởi kiện yêu cầu được giải quyết ly hôn với ông Trần Ngọc T, xét yêu cầu khởi kiện của bà Vàng là hoàn toàn đúng quy định pháp luật nên chấp nhận và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T tự nguyện kết hôn vào năm 2013, đăng ký kết hôn tại UBND phường V, Tp. N, tỉnh K nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn được, do vợ chồng không có tiếng nói chung, thường xuyên bất đồng quan điểm nên tình cảm ngày càng có khoảng cách, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T đã sống ly thân từ tháng 8/2017 đến nay. Ông T xin được đoàn tụ nhưng không đưa ra được giải pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng, cho thấy cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của bà V là chính đáng có căn cứ phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T có 01 con chung là Trần Minh Đ, sinh ngày 25/6/2014. tại Tòa bà V và ông T thỏa thuận hiện cháu Trần Minh Đ còn nhỏ, đang chung sống với mẹ nên việc bà V yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cháu Trần Minh Đ. Ông T đóng cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng (một triệu đồng); Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 8/2018 cho đến khi cháu Minh Đ đủ 18 tuổi là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà Võ Nguyễn Thế V phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (thay cho phần của ông T). Ông Trần Ngọc T phải đóng 300.000đ án phí DSST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Võ Nguyễn Thế V được ly hôn với ông Trần Ngọc T.

Về con chung: Giao cháu Trần Minh Đ, sinh ngày 25/6/2014 cho bà Võ Nguyễn Thế V trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục sau khi ly hôn. Ông Trần Ngọc T đóng cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng (một triệu đồng); Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 8/2018 cho đến khi cháu Minh Đ đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Nguyễn Thế V và ông Trần Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Võ Nguyễn Thế V phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm (thay cho phần của ông T), nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2016/0009043 ngày 09/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Như vậy, bà V đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông Trần Ngọc T phải đóng 300.000đ án phí DSST.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 98/2018/HNGĐ-ST ngày 26/07/2018 về ly hôn

Số hiệu:98/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;