TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 97/2021/HS-PT NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:61/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Lê Thanh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TM.
- Bị cáo có kháng cáo: Lê Thanh T, sinh năm: 1979 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: Khóm 2, thị trấn M, huyện TM, Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 02/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Y (chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc S; vợ tên Võ Thị Ánh Ph (đã ly hôn) và có 02 con, sinh năm 1999 và 2004; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 1995, bị Tòa án nhân dân huyện TM xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, đã được xóa án tích; Năm 1996, bị Tòa án nhân dân huyện TM xử phạt 12 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, đã được xóa án tích; Năm 2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, đã được xóa án tích; Năm 2018, bị Ủy ban nhân dân huyện TM xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc, tàng trữ đồ chơi nguy hiểm với tổng số tiền 16.500.000 đồng, đã đóng phạt xong; Tạm giữ ngày 13/8/2020; Tạm giam ngày 22/8/2020. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).
Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 13/8/2020 Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự, Kinh tế, Ma túy Công an huyện TM tuần tra trên đường Nguyễn Văn Tr, Khóm 2, thị trấn M, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp phát hiện Trần Phát H, sinh năm 1998 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu H dừng xe để kiểm tra. Tổ công tác phát hiện trong túi quần phía sau, bên trái H đang mặc trên người có một đoạn ống nhựa màu xanh, sọc trắng, bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng (đã được Tổ công tác niêm phong trong phong bì ký hiệu A1). H khai đây là ma túy H vừa mua của Lê Thanh T nhà ở đường Nguyễn Thị Minh K, Khóm 2, thị trấn M, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp, mục đích H mua ma túy để sử dụng.
Căn cứ vào lời khai của H, vào lúc 12 giờ cùng ngày, Tổ công tác kiểm tra nhà Lê Thanh T. Tại thời điểm kiểm tra, chỉ có một mình Lê Thanh T ở nhà. Tổ công tác phát hiện trong túi quần đùi bên trái T đang mặc trên người có 01 túi nylong màu trắng, bên trong có chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng (đã được Tổ công tác niêm phong trong phong bì ký hiệu A2). Kiểm tra phát hiện trên giường ngủ trong nhà T có 01 túi nylong màu trắng, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (đã được Tổ công tác niêm phong trong phong bì ký hiệu A3). T khai nhận đây là ma túy của T tàng trữ để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Phát H, Lê Thanh T, niêm phong, thu giữ vật chứng nghi là ma túy để phục vụ công tác giám định.
Quá trình điều tra Trần Phát H khai: lúc 11 giờ 25 phút ngày 13/8/2020 H gọi điện thoại cho Lê Thanh T hỏi mua 200.000 đồng ma túy thì T đồng ý bán. Đến 11 giờ 45 phút cùng ngày, H đến nhà T, lúc này chỉ có một mình T ở nhà. H vào trong nhà đưa cho T một tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng rồi nhận ma túy được để trong một đoạn ống hút màu xanh, sọc trắng được hàn kín hai đầu, H bỏ ma túy vào túi quần phía sau, bên trái. Sau đó T rủ H sử dụng ma túy đã được để sẵn trong dụng cụ sử dụng ma túy, H sử dụng một hơi thì T kêu H đi về. H đem theo ma túy mua của T đi đến đường Nguyễn Văn Trỗi, khóm 2, thị trấn M thì bị Tổ công tác phát hiện bắt giữ đưa về nhà Lê Thanh T lập biên bản. Ngoài lần mua ma túy của T bị bắt quả tang, H còn khai trước đó 01 tuần, H còn mua ma túy của T với giá 200.000 đồng.
Bị cáo Lê Thanh T khai nguồn gốc ma túy là của một người bạn tên Tuấn, cho T khi Tuấn đến nhà T chơi vào sáng ngày 12/8/2020. T chỉ biết Tuấn ở thành phố Hồ Chí Minh, không rõ họ tên, địa chỉ của Tuấn. Ngày 12/8/2020, T chia làm 02 bịch để sử dụng. 01 bịch ma túy lớn cất giấu trên giường trong nhà, bịch ma túy nhỏ sáng ngày 13/8/2020 T lấy ra một lần để vào nỏ để sử dụng, phần còn lại để trong túi quần thì bị Tổ công tác phát hiện thu giữ niêm phong trong phong bì ký hiệu A2, A3. T không thừa nhận bán ma túy cho Trần Phát H. T khai sáng ngày 13/8/2020 H có gọi điện thoại hỏi mua ma túy nhưng T trả lời không có bán. Sau đó, H có đến nhà T để hỏi mua ma túy nhưng T nói không có bán ma túy. H thấy trong dụng cụ sử dụng ma túy của T còn ma túy nên tự ý hút một hơi thì bị T đuổi về. Khoảng 20 phút sau khi H bỏ đi thì có Tổ công tác đến kiểm tra bắt giữ T.
Tại Kết luận giám định số 753/KL-KTHS ngày 16/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:
- Tinh thể rắn chứa trong một đoạn ống nhựa màu xanh, sọc trắng hàn kín hai đầu, được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,085 gam, loại Methamphetamine.
- Tinh thể rắn chứa trong một túi nylong màu trắng, được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,17 gam, loại Methamphetamine.
- Tinh thể rắn chứa trong một túi nylong màu trắng, được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,425 gam, loại Methamphetamine.
Về vật chứng, quá trình điều tra đã thu giữ:
- Thu giữ của Trần Phát H: một đoạn ống nhựa màu xanh, sọc trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1); 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu hồng. Xét không cần thiết tạm giữ Cơ quan điều tra đã trao trả điện thoại cho gia đình H.
- Thu giữ của Lê Thanh T: 02 túi nylong màu trắng, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (được niêm phong trong các phong bì ký hiệu A2, A3);
01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng; 01 dao bấm bằng kim loại màu đỏ đen; 03 hột quẹt gas tự chế; 01 bộ dụng cụ tự chế để sử dụng ma túy; 02 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đã bị hư; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng; 05 đoạn ống hút có các kích cỡ, màu sắc khác nhau; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen.
Xét thấy không cần thiết tạm giữ Cơ quan điều tra đã trao trả điện thoại cho T.
Tại bản án số 01/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TM đã quyết định:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
Tuyên bố bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lê Thanh T 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13/82020.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 07 tháng 01 năm 2021, bị cáo Lê Thanh T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Tỉnh phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Khi xem xét mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Xét mức án 02 năm là phù hợp với tính chất, mức độ mà hành vi của bị cáo gây ra. Sau khi án sơ thẩm tuyên, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp tình tiết nào mới làm căn cứ xem xét cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Quyết định của Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Thanh T.
Trong phần tranh luận, bị cáo T không ý kiến. Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thanh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ khác trong vụ án, đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 12 giờ ngày 13/8/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện TM kiểm tra nhà của Lê Thanh T phát hiện hành vi tàng trữ trái phép 02 túi nylon có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy nên lập biên bản phạm tội quả tang. Kết luận giám định xác định tinh thể rắn màu trắng thu giữ là chất ma túy, có tổng khối lượng 0,595 gam, loại Methamphetamin.
[3] Xét thấy, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo nhận thức được ma túy là chất cấm thuộc danh mục quản lý độc quyền của Nhà nước, việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện của bản thân mà bị cáo không nghĩ đến hậu quả và tác hại mà ma túy mang lại cho cộng đồng , xã hội rất to lớn. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm cho vấn nạn ma túy ngày càng trầm trọng và gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, sai đối với bị cáo.
[4] Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Xét mức án 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới so với các tình tiết mà Tòa án cấp sơ t hẩm đã xem xét áp dụng đối với bị cáo. Chính vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên phần Quyết định của bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo Lê Thanh T.
[5] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Thanh T. Giữ nguyên phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.
Tuyên bố bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Thanh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2020.
Về án phí: Bị cáo Lê Thanh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án 97/2021/HS-PT ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 97/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về