TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2020/TLST- HS ngày 04 tháng 05 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2020/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:
TRẦN THANH T, sinh năm 1988 tại Hà Nội.
ĐKHKTT: Phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội; Chỗ ở: G, phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn Q và bà Nguyễn Thị P; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc T (đã ly hôn); con: 02 (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/12/2019. Hiện bị cáo đang tại ngoại và cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm điều trị cai nghiện và phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Hà Nam. (Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa).
Người bị hại:
Anh Lê T D – Sinh năm 1997 HKTT: Xóm F, La Phù, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23h ngày 18/12/2019, Trần Thanh T đi bộ đến quán game 24h tại Số N Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội để chơi game. Đến khoảng 02h ngày 19/12/2019 thì anh Lê T D (sinh năm: 1997, HKTT: Xóm F, La Phù, Hoài Đức, Hà Nội) đi xe máy nhãn hiệu Honda wave Alpha màu đen bạc, BKS: 17B9-319.15 cũng đến quán game tại địa chỉ trên để chơi game. Anh D dựng xe ở tầng 1 trong nhà, không khoá cổ, không khoá càng và chìa khoá vẫn cắm ở ổ khoá điện rồi lên tầng 2 để chơi game.
Khoảng 5 giờ ngày 19/12/2019, T chơi xong và đi xuống tầng 1 của quán nhìn thấy anh Nguyễn Quốc Đ (SN: 1999; trú tại: Số R Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội) là nhân viên quán game đang ngủ gật. T quan sát xung quanh thấy chiếc xe máy của anh D vẫn cắm chìa khoá ở ổ khóa nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên để bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, T gọi anh Đoan dậy mở cửa cho T về rồi T dắt chiếc xe máy của anh D ra ngoài, nổ máy, điều khiển xe đi. Đi được một đoạn T dừng xe lại và kiểm tra trong cốp xe có 1 ví màu nâu, bên trong ví có một thẻ căn cước công dân, một giấy phép lái xe A1, một giấy phép lái xe B2, một đăng ký xe máy, một bảo hiểm xe máy và hai thẻ ATM đều mang tên Lê T D. Khoảng 9 giờ cùng ngày, T đến một quán internet trên phố Định Công gặp bạn là anh Trịnh Hoàng V (SN: 1982, trú tại: Số M Tổ 43 Lê Trọng Tấn, phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội) là bạn chơi game cùng T. T nói với Việt muốn tìm chỗ bán hộ bạn chiếc xe trên rồi rủ Việt cùng đi bán xe. T và Việt cùng nhau đi qua phố Định Công và phố Khâm Thiên để tìm cửa hàng bán xe nhưng không có cửa hàng nào nhận mua chiếc xe máy trên nên Việt đã điều khiển xe đưa T đến phố Chùa Hà – quận Cầu Giấy – Hà Nội để bán xe.
Khoảng 7h30p ngày 19/12/2019, anh D chơi game xong đi xuống tầng 1 để về thì phát hiện chiếc xe bị mất nên đã đến công an phường Khương Trung để trình báo sự việc đồng thời anh D đến cửa hàng mua bán xe máy của anh Hoàng Văn X(SN: 1993; trú tại số 58 Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội) để mua chiếc xe máy mới. Sau khi mua xe xong, anh D nói cho anh Dũng biết việc bị mất trộm chiếc xe máy có đặc điểm như trên và nhờ anh Dũng nếu phát hiện chiếc xe thì báo cho anh D biết.
Khoảng 13h cùng ngày, T và Việt điều khiển xe đến khu vực Chùa Hà, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Khi đến nơi Việt đứng ngoài chờ, còn T vào cửa hàng mua bán xe của anh Dũng để bán xe. Thấy chiếc xe máy mà T bán có đặc điểm giống với chiếc xe máy mà anh D đã mất trộm nên anh Dũng đã gọi cho anh D đến cửa hàng để kiểm tra. Khoảng 15phút sau, anh D đến xác nhận chiếc xe T muốn bán cho anh Dũng chính là xe của anh D mới bị mất trộm. Anh D cùng anh Dũng giữ T lại và bàn giao cho công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Sau khi tiếp nhận, công an phường Dịch Vọng đã bàn giao T và hồ sơ vụ án cho Công an phường Khương Trung xử lý theo thẩm quyền.
- Về vật chứng: Cơ quan công an thu giữ của Trần Thanh T gồm: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE ALPHA màu đen bạc, BKS:
17B9-319.15, SK: 3906HY643312, SM: JA39E0617496; 01 (một) ví đựng giấy tờ màu nâu kích thước 10x7 (cm) ở cốp xe, bên trong ví có:
+ 01 (một) căn cước công dân mang tên Lê T D; 01 (một) Giấy phép lái xe A1 mang tên Lê T D; 01 (một) Giấy phép lái xe B2 mang tên Lê T D; 01 (một) đăng ký xe máy số 043851 mang tên Lê T D; 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng BIDV mang tên Lê T D; 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng Techcombank mang tên Lê T D; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy mang tên Lê T D.
+ 01 chiếc áo khoác màu đỏ đậm dài tay nhãn hiệu Merc London của Trần Thanh T (đã qua sử dụng); 01 quần bò dài màu xanh của Trần Thanh T (đã qua sử dụng); 01 đôi giày màu đen của Trần Thanh T (đã qua sử dụng).
+ 01 đĩa VCD – kèm theo hồ sơ.
Tại cơ quan điều tra, Trần Thanh T khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên.
Căn cứ biên bản kết luận định giá tài sản số 46/KLĐG ngày 07/02/2020 của hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự UBND quận Thanh Xuân, kết luận: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda wave Alpha màu đen bạc, mang BKS: 17B9 - 319.15, số khung: 3906HY643312, số máy: JA39E0617496 đã qua sử dụng có trị giá: 12.000.000 đồng Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trao trả cho bị hại là anh Lê T D: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda wave Alpha màu đen bạc, mang BKS: 17B9- 319.15, số khung: 3906HY643312, số máy: JA39E0617496; 01 (một) ví đựng giấy tờ màu nâu kích thước 10x7 (cm); 01 (một) căn cước công dân; 01 (một) Giấy phép lái xe A1; 01 (một) Giấy phép lái xe B2; 01 (một) đăng ký xe máy số 043851; 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng BIDV; 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng Techcombank; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy mang tên Lê T D. Anh D đã nhận toàn bộ tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác.
Đối với Trịnh Hoàng V, Việt không biết chiếc xe T mang đi bán là xe do T trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với cửa hàng game 24h tại Số N Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội do chị Doãn Thị Y (sinh năm: 1986, HKTT: xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) là chủ cơ sở kinh doanh, cửa hàng của chị Út không có nhân viên trông xe, khách hàng vào sử dụng dịch vụ internet ở quán phải tự bảo vệ tài sản cá nhân, nếu xảy ra mất mát tài sản, khách hàng phải chịu trách nhiệm và cửa hàng của chị Út có gắn thông báo đó tại tầng một nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
* Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thanh T đang điều trị cai nghiện ma túy tự nguyện tại Trung tâm điều trị cai nghiện và phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Hà Nam, bị cáo đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, bị cáo có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt; Căn cứ điểm c, khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng Hình sự HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKSTX ngày 22/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo: Trần Thanh T phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 06 tháng đến 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 chiếc áo khoác màu đỏ đậm dài tay nhãn hiệu Merc London (đã qua sử dụng); 01 quần bò dài màu xanh (đã qua sử dụng); 01 đôi giày màu đen (đã qua sử dụng)
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thanh T có đơn xin xét xử vắng mặt với lý do đang điều trị cai nghiện ma túy tự nguyện tại Trung tâm điều trị cai nghiện và phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Hà Nam, bị cáo đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, tại đơn trình bày bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu và không có ý gì khác. Xét thấy việc bị cáo vắng mặt tại phiên tòa không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án; Căn cứ điểm c, khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng Hình sự nên HĐXX xử vắng mặt bị cáo là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng.
Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân trong quá trình điều ta, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Căn cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án, tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai người làm chứng, kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản, phù hợp với tang vật, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 5 giờ ngày 19/12/2019 bị cáo Trần Thanh T đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại và nhân viên trông cửa hàng game 24h tại Số N Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội; bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu Honda wave Alpha màu đen bạc, BKS: 17B9-319.15 của anh Lê T D trị giá 12.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo T đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố bị cáo T để xét xử theo tội danh đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng không chịu lao động, hấp thụ lối sống buông thả, thích có tiền để hưởng thụ dẫn đến việc phạm tội. Nên cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi tội phạm của bị cáo đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và đảm bảo phòng ngừa chung cho xã hội.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả cho bị hại; Bị cáo phạm tội lần này là lần đầu thuộc trường hợp ít nghiệm trọng, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Lê T D đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo bồi thường và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 chiếc áo khoác màu đỏ đậm dài tay nhãn hiệu Merc London (đã qua sử dụng); 01 quần bò dài màu xanh (đã qua sử dụng) 01 đôi giày màu đen (đã qua sử dụng) đây là những đồ vật bị cáo mặc khi thực hiện hành vi phạm tội bị cơ quan điều tra thu giữ, xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên cần trả lại bị cáo.
[6] Các vấn đề khác: Đối với Trịnh Hoàng V là người cùng đi bán xe với T, Việt không biết chiếc xe T mang đi bán là xe do T trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý, do vậy HĐXX không xem xét.
Bị cáo phải chịu án phí HSST và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố: Bị cáo: Trần Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2/ Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điểm c, khoản 2, Điều 290 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Xử phạt bị cáo: Trần Thanh T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3/ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có đề nghị bị cáo phải bồi thường và yêu cầu gì khác nên không xét.
4/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Trả lại bị cáo Trần Thanh T 01 chiếc áo khoác màu đỏ đậm dài tay nhãn hiệu Merc London (đã qua sử dụng); 01 quần bò dài màu xanh (đã qua sử dụng) 01 đôi giày màu đen (đã qua sử dụng) được đựng trong 01 hộp caton nhãn hiệu UPM Office niêm phong dán kín có chữ ký của đối tượng Trần Thanh T, chữ ký của cán bộ công an phường Phạm Tuấn Anh và dấu của Công an phường Khương Trung.
Hiện các vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/5/2020.
5/ Án phí và quyền kháng cáo:
Áp dụng: Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, danh mục án phí kèm theo.
Bị cáo Trần Thanh T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, Bị cáo, bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 97/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 97/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về