Bản án 97/2020/HS-ST ngày 05/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 05 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2020/TLST- HS ngày 17 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Mỹ A, sinh năm 1989, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không xác định được bố, con bà Nguyễn Thị G; bị cáo có vợ là Đinh Thị N và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2020 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 00 phút, ngày 21/6/2020, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 32, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Nguyễn Mỹ A (Có lý lịch nêu trên) đã phát hiện Nguyễn Mỹ A đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu trắng, bên trong đựng 07 viên nén màu hồng. Nguyễn Mỹ A khai là Methamphetamine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, dẫn giải Nguyễn Mỹ A về Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.

Ngày 21/6/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với VKSND huyện Mộc Châu và phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng số ma túy thu giữ của Nguyễn Mỹ A, kết quả: 07 viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Mỹ A có khối lượng 0,65 gam, lấy 02 viên có khối lượng 0,17 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu “A”. Cơ quan Công an huyện Mộc Châu ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 1045 ngày 25/6/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu A là ma túy, loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,65 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Nguyễn Mỹ A khai nhận: Bản thân là người nghiện chất ma túy, Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 21/6/2020, Nguyễn Mỹ A mang theo số tiền 350.000đ rồi đi bộ một mình từ nhà ra đường dân sinh thuộc tiểu khu B, thị trấn N, huyện M thuê xe ôm của một người đàn ông không quen biết đi đến bản C, xã Đ, huyện M, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến địa phận bản C, xã Đ, A xuống xe trả tiền xe ôm hết 50.000đ, A đi bộ vào trong bản thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, A hỏi và mua được của người đó 07 viên Methamphetamin được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng với giá 300.000đ, A cất giấu gói ma túy vào trong túi áo ngực bên trái đang mặc và xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết, đi nhờ đến tiểu khu 32, thị trấn N, huyện M thì xuống xe. Khi Nguyễn Mỹ A đang đi bộ trên đường dân sinh thuộc tiểu khu 32, thị trấn N, huyện M thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bản cáo trạng số: 99/CT-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị cáo Nguyễn Mỹ A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Mỹ A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Nguyễn Mỹ A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Mỹ A từ 21 tháng đến 24 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 05 viên nén màu hồng có khối lượng 0,48 gam, vỏ gói niêm phong màu trắng và vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Mỹ A.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Mỹ A thừa nhận: Hồi 17 giờ 00 phút ngày 21/6/2020, Nguyễn Mỹ A đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 07 viên Methamphetamine có khối lượng 0,65 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 05 viên nén màu hồng có khối lượng 0,48 gam, vỏ gói niêm phong màu trắng và vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Mỹ A, là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với người lái xe ôm chở bị cáo từ tiểu khu B, thị trấn N đến địa phận bản C, xã Đ, huyện M và người đàn ông cho Mỹ A đi nhờ xe từ bản C, xã Đ, huyện M đến địa phận tiểu khu 32, thị trấn N, huyện M. Quá trình điều tra Mỹ A khai nhận không biết tên, tuổi, địa chỉ của hai người đàn ông nêu trên. Việc bị cáo Tàng trữ trái phép chất ma túy, hai người này hoàn toàn không biết, do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

[7] Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mỹ A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mỹ A 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 21/6/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Nguyễn Mỹ A, bắt ngày 21/6/2020: Bên trong đựng 05 viên = 0,48 gam Methamphetamine, vỏ gói niêm phong ban đầu và mảnh nilon màu trắng; 01 Phong bì niêm phong bên ngoài ghi que thử test ma túy đối với Nguyễn Mỹ A, ngày 21/6/2020, kq: Dương tính. Bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Nguyễn Mỹ A.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Mỹ A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 05/8/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 97/2020/HS-ST ngày 05/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:97/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;