TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 97/2017/HSPT NGÀY 17/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 154/2017/HSPT ngày 19/10/2017. Do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đối với bản án hình sự sơ thẩm số 167/2017/HSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.
Bị cáo: Phạm Tuấn A, sinh năm 1975 tại Hải Dương;
Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Số 210 phố Đ, phường P, thành phố H, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 10/12, con ông Phạm Văn L và bà Nguyễn Thị P; có vợ là Đỗ Thu H và 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án: Không; tiền sự: Ngày 10/3/2017 bị công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/5/2017, chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an Hải Dương từ ngày 18/5/2017 đến nay – Có mặt tại phiên tòa. Bản án không bị kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 10/5/2017, tại khu vực trước cổng số nhà 210 Điện Biên Phủ, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an tỉnh Hải Dương phối hợp với Công an phường Phạm Ngũ Lão phát hiện bắt quả tang Phạm Tuấn A có hành vi bán trái phép 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 2x3cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng cho đối tượng Nguyễn Văn Đông với số tiền 900.000đ.
Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Tuấn A Cơ quan điều tra đã thu giữ: Một túi nilon màu trắng kích thước khoảng 07x10cm bên trong có chứa cục bột màu trắng; một túi nilon màu trắng kích thước khoảng 07x10cm trên trong có đựng 50 viên nén hình tròn màu nâu đường kính mỗi viên khoảng 0,5cm trên mặt mỗi viên có in hình chữ “T”; một cân điện tử màu đen đã cũ; một khẩu súng một nòng dài khoảng 70cm có báng súng bằng gỗ dài khoảng 15cm, ốp tay cầm đỡ nòng súng bằng gỗ dài khoảng 20cm, thân súng và nòng súng bằng kim loại dài khoảng 55cm, đường kính nòng súng khoảng 1,5cm có cò súng và búa đập bằng kim loại, trên thân súng có ghi STEVENS và số 6.2242; một bộ quần áo trang phục cảnh sát xuân hè có ve hàm cấp thượng sĩ, có dây lưng hiệu công an nhân dân.
Quá trình điều tra, Phạm Tuấn A khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên vào ngày 09/5/2017 bị cáo lên khu vực chợ Trời, Hà Nội gặp và mua của một người đàn ông không quen biết một túi ma túy đá, một túi ma túy Ketamin và một túi ma túy dạng kẹo với tổng số tiền 3.000.000 đồng với mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, Anh mang về nhà cất giấu, lấy một ít ma túy đá ra sử dụng cho bản thân, số còn lại trong túi ma túy đã bán cho Đông thì bị phát hiện bắt giữ, đối với túi ma túy Ketamin và ma túy dạng kẹo chưa sử dụng và chưa bán; đối với khẩu súng, bộ quần áo cảnh sát, cân tiểu li Tuấn A cũng khai mua tại chợ Trời, Hà Nội cùng ngày 09/5/2017 của một người đàn ông không quen biết khác; súng và quần áo với mục đích để chơi, cân tiểu li với mục đích để chia nhỏ ma túy ra bán.
Tại Kết luận giám định số 2355/C54(TT2) ngày 07/6/2017, Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát kết luận: Mẫu ký hiệu M1: Tinh thể màu trắng trong túi nilon gửi giám định có trọng lượng 0,796gam, có Methamphetamine; Mẫu ký hiệu M2: Chất màu trắng đục trong túi nilon gửi giám định có trọng lượng 27,611gam có Ketamine; Mẫu ký hiệu M3: Các viên nén hình tròn màu nâu, trên một mặt mỗi viên đều có chữ T trong túi nilon gửi giám định có tổng trọng lượng 15,449gam đều có MDMA và Ketamine.
Tại Kết luận giám định số 2345/C54(P3) ngày 15/5/2017, Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát kết luận: Khẩu súng có chữ STEVENS và số 6.2242 gửi đến giám định nguyên là súng săn cỡ 12 nhưng đã bị cắt ngắn nòng và báng. Hiện khẩu súng này còn sử dụng để bắn được, có tính năng tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng, thuộc danh mục vũ khí quân dụng.
Tại kết luận giám định 343/C54 (TT2) ngày 18/8/2017, Viện khoa học hình sự- Tổng Cục cảnh sát kết luận: Mẫu ký hiệu M1: Hàm lượng Methamphetamine là 70,9%; Mẫu ký hiệu M2: Hàm lượng Ketamine là 31,3%; Mẫu ký hiệu M3: Hàm lượng Ketamine trung bình: 8,6%; Hàm lượng MDMA trung bình: 2,7%.
Tại bản án sơ thẩm số 167/2017/HSST ngày 08/9/2017, TAND thành phố Hải Dương đã xác định tổng trọng lượng tinh chất ma túy rắn thu giữ của Tuấn A là 10,952344gam và áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (Viết tắt là BLHS), xử phạt Phạm Tuấn A 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; Tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 5 năm tù.
Ngày 20/9/2017, Viện trưởng VKSND thành phố Hải Dương kháng nghị , đề nghị TAND tỉnh Hải Dương áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248, Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự (Viết tắt là BLTTHS), sửa bản án hình sự sơ thẩm theo hướng: áp dụng điểm m khoản 2 Điều 194 BLHS và tăng hình phạt tù đối với bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh Hải Dương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm m khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Tuấn A từ 07 năm 6 tháng đến 08 năm tù; bị cáo Tuấn A không đồng ý với kháng nghị của VKSND thành phố Hải Dương và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Hải Dương trong thời hạn luật định là kháng nghị hợp lệ.
[2] Xét nội dung kháng nghị của VKSND thành phố Hải Dương thì thấy: Theo kết luận giám định số 2355/C54 (TT2) ngày 07/6/2017, Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát thì các vật thu giữ của Tuấn A mà Cơ quan điều tra trưng cầu giám định có tổng trọng lượng là 43,856 gam, có chứa các chất ma túy là Methamphetamine, Ketamine, MDMA chứ không phải toàn bộ trọng lượng các vật thu giữ đó là Methamphetamine, Ketamine và MDMA. Vì vậy TAND thành phố Hải Dương đã trưng cầu Viện khoa học hình sự, Bộ Công an giám định hàm lượng chất ma túy; trên cơ sở hàm lượng ma túy, HĐXX sơ thẩm đã tính ra tinh chất ma túy trong từng mẫu và xác định tổng trọng lượng tinh chất ma túy ở thể rắn mà bị cáo Phạm Tuấn A mua bán chỉ là 10,952344 gam và quyết định xử phạt bị cáo 04 năm tù là chính xác, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS và hướng dẫn tại mục 1.4 phần I và điểm e mục 3.6 phần II Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP. Vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Hải Dương.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, khángnghị cấp phúc thẩm không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND thành phố Hải Dương; Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 167/2017/HSST ngày 06/9/2017 của TAND thành phố Hải Dương.
Áp dụng khoản 1 Điều 194, khoản 1 Điều 230, điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn A 04 (Bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 (Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/5/2017.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm hiệu lực kể từ ngày tuyên án, ngày 17/11/2017./.
Bản án 97/2017/HSPT ngày 17/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 97/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về