TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 96/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 10 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 96/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 822/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2019; Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa số 2051/TB-TA ngày 22 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh A, sinh năm 1957; nơi cư trú: Số 24/309 đường B, phường C, quận D, thành phố Hải Phòng; có mặt;
- Bị đơn: Bà Hồ Thị E, sinh năm 1962; nơi cư trú: Canada; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn nộp ngày 31-5-2018 và các văn bản khác, nguyên đơn là ông Nguyễn Thanh A trình bày: Ông A và bà Hồ Thị E kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 26-4-2013. Do ông A đã nhiều tuổi, không phù hợp với điều kiện sinh sống tại phía Bắc Canada, nơi bà E sinh sống nên ông A đề nghị bà E sau khi về hưu thì về Việt Nam để vợ chồng đoàn tụ nhưng bà E không đồng ý. Do ông A, bà E phải sống xa nhau nên tình cảm vợ chồng ngày một phai nhạt. Từ năm 2017 đến nay, ông A, bà E không còn liên lạc và quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy tình cảm đối với bà E không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ nên ông A yêu cầu được ly hôn với bà E để ổn định cuộc sống.
Về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Ông A xác nhận không có con chung và tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, bà E vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thực hiện việc ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Mâu thuẫn giữa ông A và bà E đã sâu sắc, không còn khả năng khắc phục nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông A; về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Ông A không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng:
[1] Quan hệ tranh chấp của vụ án về việc ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
[2] Bà E vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án thông báo việc Tòa án đang giải quyết việc xin ly hôn giữa ông A và bà E; đề nghị bà E cho biết quan điểm đối với yêu cầu xin ly hôn của ông A. Ngày 07-9-2018, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng nhận được Công văn số 1965/CH-BTP của Bộ Tư pháp về việc đã chuyển hồ sơ ủy thác tư pháp cho Bộ Tư pháp và Trưởng Công tố bang Alberta, Canada để thực hiện việc ủy thác và gửi lại kết quả cho Bộ Tư pháp. Ngày 01-4-2019, Tòa án nhận được văn bản trả lời số 927/BTP-PLQT ngày 26-3-2019 của Bộ Tư pháp cho biết, Cơ quan có thẩm quyền của Canada không thực hiện được ủy thác tư pháp do không có người nhận tại địa chỉ được yêu cầu. Ngay sau khi nhận được kết quả ủy thác tư pháp, ngày 03-5-2019, Tòa án đã tiến hành đăng thông báo của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Canada yêu cầu bà E có mặt để giải quyết vụ án và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 10 tháng 6 năm 2019. Nhưng cho đến nay đã hết thời hạn một tháng kể từ ngày đăng thông báo nhưng bà E vẫn không có mặt tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt bà E theo quy định tại điểm c khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về yêu cầu của đương sự:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông A và bà E kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 26-4-2013 nên là hôn nhân hợp pháp. Nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn giữa ông A, bà E là do các bên không thống nhất được nơi cùng chung sống. Do điều kiện sức khỏe, ông A không thể sang chung sống cùng bà E tại Canada và ngược lại bà E cũng không thể về Việt Nam để chung sống cùng ông A. Từ năm 2017 cho đến nay, hai bên không còn liên lạc, quan tâm đến nhau. Hội đồng xét xử xét thấy, ông A yêu cầu được ly hôn với bà E là phù hợp với mối quan hệ và tình trạng thực tế giữa hai bên; phù hợp với quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận.
[4] Về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Ông A trình bày quá trình chung sống không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.
- Về án phí sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài:
[5] Ông A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp theo quy định pháp luật. Ngoài ra theo quy định của luật pháp Canada, ông A còn phải nộp chi phí tống đạt là 100 đô la Canada (tờ séc trị giá 100 đô la Canada do Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh Hải Phòng phát hành) gửi kèm theo hồ sơ ủy thác tư pháp cho Bộ Tư pháp, số tiền này ông A đã nộp đủ (Biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ ngày 11-7-2018) - Điều 146, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ vào Điều 146, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh A:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ông Nguyễn Thanh A được ly hôn với bà Hồ Thị E.
2. Về quan hệ nuôi con chung và quan hệ tài sản chung: Ông Nguyễn Thanh A xác nhận không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.
3. Về án phí sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài:
Ông Nguyễn Thanh A phải chịu tiền án p hí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010720 ngày 06-6-2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Ông Nguyễn Thanh A phải chịu tiền chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài được khấu trừ vào số tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là 200.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010735 ngày 19-6-2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Ông Nguyễn Thanh A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, ông Nguyễn Thanh A có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật, bà Hồ Thị E có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Bản án 96/2019/HNGĐ-ST ngày 10/06/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 96/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về