Bản án 957/2018/HNGĐ-ST ngày 30/05/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 957/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1790/2017/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/4/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 87/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/5/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn A

Địa chỉ: 255 đường N, Phường M, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Ông Dương B

Địa chỉ : 255 đường N, Phường M, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản tại Tòa án, nguyên đơn là bà Nguyễn A trình bày: Năm 2012, bà và ông Dương B tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 149/2012, quyển số 02/2012 ngày 10/9/2012. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 01 năm. Từ năm 2014, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, nguyên nhân là do không hợp về tính cách, bất đồng quan điểm về mọi vấn đề dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã gây gổ. Nay nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Dương B.

Về con chung: Bà và ông Dương B có 01 con chung tên Dương Đ, sinh ngày 23/8/2014. Bà đồng ý giao con cho ông Dương B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà khai không có.

Toà án nhân dân quận Bình Thạnh đã nhiều lần triệu tập hợp lệ bị đơn là ông Dương B đến Tòa án để giải quyết vụ kiện nhưng bị đơn vắng mặt không lý do, không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh tham gia phiên tòa phát biểu: Ngoại trừ việc vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa. Nguyên đơn, đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Yêu cầu của nguyên đơn có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đây là tranh chấp về việc “ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2]. Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên toà. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Về nội dung:

Hội đồng xét xử xét thấy: Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu ly hôn với ông Dương B. Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 149, quyển số 02/2012 do Ủy ban nhân dân xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau cấp ngày 10/9/2012 thể hiện quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn A và ông Dương B là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà A, ông Thạnh chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo nguyên đơn là do tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường cải vã.

Căn cứ vào kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân Phường 22, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện: Hiện nay bà A và ông Thạnh không còn chung sống với nhau, trẻ Dương Đ, sinh năm 2014 sinh sống cùng ông Dương B và ông Thạnh là người chăm sóc nuôi dưỡng. Hàng xóm xung quanh biết 01 lần xảy ra mâu thuẫn tại nơi ở 255 đường N, Phường M, quận T. Ủy ban nhân dân phường 22, quận Bình Thạnh chưa giải quyết hòa giải lần nào đối với mâu thuẫn của bà A và ông Thạnh.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Dương B đã không đến Tòa án làm việc, qua đó cho thấy ông không quan tâm đến quan hệ hôn nhân, không có hành động tích cực để hàn gắn gia đình.

Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn giữa các bên đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu ly hôn của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Dương Đ, sinh ngày 23/8/2014. Nguyên đơn đồng ý giao con cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc. Xét, hiện nay trẻ Đ đang được ông B trực tiếp chăm sóc nên việc giao trẻ Đ cho ông B tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là có cơ sở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Nguyên đơn khai không có.

[4]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Bà Nguyễn A được ly hôn với ông Dương B.

2.Về con chung: Bà Nguyễn A với ông Dương B có 01 con chung tên Dương Đ, sinh ngày 23/8/2014. Giao trẻ Dương Đ cho ông Dương B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của trẻ, khi có căn cứ, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung: Bà Nguyễn A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về nợ chung: Nguyên đơn khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

6. Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng bà Nguyễn A chịu nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0002839 ngày 07/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn A đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

7.Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự

8.Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 957/2018/HNGĐ-ST ngày 30/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:957/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;