Bản án 95/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 95/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 46/2021/TLST- HNGĐ ngày 11/3/2021, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2021/QĐXXST - HNGĐ, ngày 14/6/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị; Lăng Thị H, sinh năm 1990. Địa chỉ: Xóm 6 Phượng Minh, xã KS, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa

2. Bị đơn: Anh; Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1986. Địa chỉ: Xóm C3, xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa

3. Người làm chứng: Bà; Nguyễn Thị B, sinh năm 1956. Địa chỉ: Xóm C3, xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lăng Thị H, trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Chị Lăng Thị H kết hôn với anh Nguyễn Hữu Th, vào ngày 17/01/2013 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã KS, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống tại nhà ngoại ở xã KS, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Nhưng hộ khẩu của anh Nguyễn Hữu Th vẫn ở xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và hay đi về ở nhà nội ở xã TĐ. Tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn sống tình cảm bình thường, đến tháng 5/2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, anh Nguyễn Hữu Th lo chơi bời, nghiện ngập, đến đầu năm 2020 thì bị Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ áp dụng biện pháp hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Đến ngày 13/4/2021 thì được miễn giảm thời hạn chấp hành cai nghiện bắt buộc còn lại của quyết định bị áp dụng và đã về quê ở xã TĐ, bản thân chị cũng đã đến nhà trao đổi với anh Nguyễn Hữu Th và gia đình, về việc ly hôn của vợ chồng, nhưng anh Nguyễn Hữu Th nói là muốn làm gì thì cứ làm, anh sẽ không đến Tòa án làm việc.

Vì vậy nay chị Lăng Thị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, nguyện vọng xin được ly hôn anh Nguyễn Hữu Th.

- Về trách nhiệm nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung, tên là Nguyễn Hữu Lâm D, sinh ngày 23/9/2013; Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 07/9/2015.

Hiện nay 02 con đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu thứ 02, còn cháu đầu để chồng nuôi.

Về tài sản và nợ: Chị không có ý kiến hay yêu cầu gì Tòa án giải quyết.

Ngoài các ý kiến trên chị Lăng Thị H không có thêm bất cứ ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã triệu tập nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải, song anh Nguyễn Hữu Th vẫn vắng mặt.

Người làm chứng là bà Nguyễn Thị Bình trình bày như sau: Bà là mẹ đẻ của anh Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1986, có địa chỉ ở xóm C3, xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An; gia đình có 03 người con, anh Nguyễn Hữu Th là có thứ 3 trong gia đình; hai vợ chồng anh Nguyễn Hữu Th và chị Lăng Thị H kết hôn với nhau vào năm 2013, sau khi cưới hai vợ chồng sống tại nhà bố mẹ chồng ở xã TĐ một thời gian, sau đó lên huyện Tân Kỳ làm ăn. Nay chị Lăng Thị H xin ly hôn, thì anh Nguyễn Hữu Th hoàn toàn nhất trí; về con thì vợ chồng anh Nguyễn Hữu Th có 02 người con chung tên là Nguyễn Hữu Lâm D và Nguyễn Thị Yến Nh; nếu vợ chồng ly hôn thì có nguyện vọng giao 02 cháu cho bên nhà nội trực tiếp nuôi dưỡng, còn việc cấp dưỡng nuôi con là tùy vào lương tâm của người mẹ.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tố tụng. Còn về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Lăng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Hữu Th; về con giao cho chị Lăng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 07/9/2015; giao cho anh Nguyễn Hữu Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hữu Lâm D, sinh ngày 23/9/2013, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau; còn tài sản không có yêu cầu nên không xem xét; chị Lăng Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải, song anh Nguyễn Hữu Th vẫn vắng mặt, cho nên không thể thực hiện việc hòa giải và công khai chứng cứ. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn đã được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục vắng mặt; cho nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử bình thường theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Cuộc hôn nhân giữa chị Lăng Thị H và anh Nguyễn Hữu Th được xác lập trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/01/2013 tại UBND xã KS, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống bên nhà ngoại ở xã KS, huyện Tân Kỳ, nhưng hộ khẩu thường trú của anh Nguyễn Hữu Th vẫn ở xã TĐ, huyện Thanh Chương và đi đi về về nhà nội ở xã TĐ, huyện Thanh Chương. Tình cảm vợ chồng sau khi cưới bình thường, đến tháng 5/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, ngày 20/01/2020 anh Nguyễn Hữu Th bị Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ ra Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng và chấp hành tại Cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; đến ngày 13/4/2021 anh Nguyễn Hữu Th được Tòa án nhân dân huyện Anh Sơn, ra Quyết định miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại và về địa phương cư trú. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị Lăng Thị H vẫn nhất quyết xin ly hôn; còn anh Nguyễn Hữu Th thì vắng mặt và không có ý kiến gì; tại phiên tòa chị Lăng Thị H vẫn một mực xin ly hôn. Điều đó chứng tỏ tình trạng vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc xin ly hôn của chị Lăng Thị H, là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận cho chị Lăng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Hữu Th.

[3] Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có 02 con chung với nhau tên là Nguyễn Hữu Lâm D, sinh ngày 23/9/2013; Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 07/9/2015. Xét thấy chị Lăng Thị H xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Yến Nh, còn cháu Lâm D để anh Nguyễn Hữu Th trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp, vì cháu Yến Nhi đang còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ; đồng thời phù hợp với nguyện vọng của các con; là hoàn toàn phù với Điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về chia tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết về phần tài sản.

[5] Xét ý kiến của Kiểm sát viên: Các ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Lăng Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điều 147; 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Lăng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Hữu Th.

2. Về trách nhiệm nuôi con:

Giao cháu Nguyễn Thị Yến Nh, sinh ngày 07/9/2015 cho chị Lăng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Giao cháu Nguyễn Hữu Lâm D, sinh ngày 23/9/2013 cho anh Nguyễn Hữu Th trực tiếp nuôi dưỡng.

Hai người không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Hai người có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản chung: Tòa án không xem xét.

4. Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về án phí: Chị Lăng Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0004620 ngày 11/3/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn.

6. Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 95/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:95/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;