Bản án 95/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH 

BẢN ÁN 95/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 102/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Phạm Thị H, sinh năm 1987 (tên gọi khác: không); ĐKHKTT: Khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H1, sinh năm 1960 và bà Trần Thị H2, sinh năm 1964; Có chồng là: Nguyễn Duy P, sinh năm 1986 (hiện đang chấp hành án tại trại giam Công an tỉnh Bắc Ninh) và có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị O, sinh năm 1970 (tên gọi khác: không); ĐKHKTT: Khu phố T.L, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thế H3 (đã chết) và bà Tào Thị V (đã chết); Có chồng là: Vũ Hồng Đức, sinh năm 1966; có 01 con sinh năm 1989; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 31/12/2019. Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 25/12/2019, Công an thị xã T.S nhận được tố giác của quần chúng nhân dân về việc: Tại nhà của Phạm Thị H, sinh năm 1987; trú tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh có biểu hiện phạm tội đánh bạc. Sau khi tiếp nhận tố giác, Công an thị xã T.S phối hợp với Công an phường Đ.B, thị xã T.S tiến hành kiểm tra. Quá trình lực lượng công an kiểm tra hành chính, Phạm Thị H tự giác giao nộp 01 tờ giấy có ghi các số lô, số đề và khai nhận là bảng cáp đề H ghi cho Nguyễn Thị O, sinh năm 1970; trú tại: khu phố Tân Lập, phường Đ.B, thị xã T.S chơi vào ngày 25/11/2019 với tổng số tiền 21.895.000 đồng. Sau khi biết H bị bắt O đã đến cơ quan điều tra đầu thú và khai rõ hành vi phạm tội của bản thân.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 62/CT-VKS ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử các bị cáo Phạm Thị H và Nguyễn Thị O về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo H khai nhận: Bản thân bị cáo và O có quan hệ quen biết nhau nên bị cáo và O có thỏa thuận với nhau về việc lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày để cùng nhau tham gia đánh bạc ăn tiền bằng hình thức ghi số lô, số đề. O có muốn mua số lô, số đề bị cáo trực tiếp bán cho O. Để thực hiện hành vi bán số lô, số đề bị cáo chuẩn bị 01 chiếc bút bi mực xanh và 01 tờ giấy có sẵn ở nhà bị cáo, Với thỏa thuận như trên, ngày 25/11/2019 O có nhu cầu mua số lô, số đề với bị cáo nên O đã viết các số lô, số đề muốn mua ra 01 tờ giấy và chuyển cho bị cáo. Buổi tối hôm đó căn cứ kết quả xổ số miền Bắc thì những số lô, số đề O mua không trúng số nào. Đến ngày 25/12/2019, khi bị cáo đang ở nhà thì bị lực lượng công an đến kiếm tra, bị cáo đã giao nộp cáp đề đã ghi cho O ngày 25/11/2019. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo xử mức án nhẹ để bị cáo nuôi con ăn học. Đối với số tiền 21.895.000 đồng O đã trả bị cáo, bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết số tiền trên.

Bị cáo O khai: Khi biết bị cáo H bị bắt về hành vi đánh bạc, bị cáo đã đến Cơ quan điều tra đầu thú. Bị cáo thừa nhận vào ngày 25/11/2019 bị cáo có mua số lô, số đề như H khai là đúng nhưng không có số nào trúng. Bị cáo biết việc làm như trên là sai và hứa sẽ sửa chữa.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị H và Nguyễn Thị O phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Xử phạt các bị cáo Phạm Thị H và Nguyễn Thị O mỗi bị cáo từ 10 đến 13 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 20 đến 26 tháng tù tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Truy thu 21.895.000 đồng là tiền dùng đánh bạc của Phạm Thị H nộp ngân sách nhà nước (Xác nhận bị cáo H đã nộp 10.200.000đ, bị cáo O nộp 200.000 đồng tại Chi cục Thi hành án thị xã T.S) Đối với bảng cáp ghi số lô, số đề của O chuyển cho H để H ghi số lô, số đề cho O cần lưu giữ kèm theo hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời trình bày của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày nên ngày 25/11/2019 Phạm Thị H và Nguyễn Thị O đã thỏa thuận với nhau về việc đánh bạc bằng hình thức chơi số lô, số đề. Nguyễn Thị O đã ghi các số lô, số đề mà O muốn đánh vào 01 tờ giấy sau đó chuyển cho Nguyễn Thị H để H nhận và ghi các số lô, số đề cho O với tổng số tiền 21.895.000 đồng. Đến ngày 25/12/2019, H bị lực lượng Công an kiểm tra và phát hiện. Sau đó, Nguyễn Thị O đã đến cơ quan điều tra đầu thú về hành vi phạm tội của bản thân. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo Phạm Thị H và Nguyễn Thị O phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố các bị cáo.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn là một loại tệ nạn xã hội, lôi kéo nhiều người tham gia, gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Nên cần phải xử lý nghiêm các bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo có thái độ ăn năn hối cải về hành vi pham tội của mình. Bị cáo O sau khi biết hành vi phạm tội bị phát giác đã đến cơ quan điều tra Công an thị xã T.S đầu thú, ngày 27/4/2020 bị cáo H đã nộp 10.200.000 đồng tiền phạt nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong khi lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo nên việc cho các bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đối chiếu với các quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì các bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo. Vì vậy, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, cho các bị cáo hưởng lượng khoan H của pháp luật, cải tạo tại địa phương cũng có tác dụng giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo H, O đánh bạc nhằm mục đích kiếm lời nên ngoài hình phạt chính thì cần phạt bổ sung các bị cáo một khoản tiền để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Về xử lý vật chứng: Số tiền 21.895.000 đồng là tiền đánh bạc mà có, bị cáo H đã dùng để chi tiêu cá nhân hết. Nay cần truy thu buộc bị cáo H phải nộp lại số tiền trên để nộp ngân sách nhà nước như đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo H đã nộp 10.200.000đ, bị cáo O nộp 200.000 đồng tại Chi cục Thi hành án thị xã T.S do vậy cần tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án. Đối với bảng cáp ghi số lô, số đề của bị cáo O chuyển cho bị cáo H để bị cáo H ghi số lô, số đề cho bị cáo O đã lưu giữ đánh số bút lục kèm theo hồ sơ vụ án do đó không giải quyết.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 48 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị H, Nguyễn Thị O phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt các bị cáo Phạm Thị H và Nguyễn Thị O mỗi bị cáo 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung mỗi bị cáo 10.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Giao các bị cáo Phạm Thị H và Nguyễn Thị O cho UBND phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về vật chứng: Truy thu buộc bị cáo H phải nộp 21.895.000 đồng nộp ngân sách nhà nước (Xác nhận bị cáo H đã nộp 10.200.000đ, bị cáo O nộp 200.000 đồng tại Chi cục Thi hành án thị xã T.S) Về án phí: Các bị cáo H và O mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 95/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:95/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;