TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 950/2017/ST-HNGĐ NGÀY 19/09/2017 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 19 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân sơ thẩm thụ lý số 111/2017/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2017 về việc “Không công nhận vợ chồng, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 297/2017/QĐXXST-DS ngày 23/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 198/2017/QĐST-DS ngày 11/9/2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tấn G, sinh năm 1970 (có mặt)
Hộ khẩu thường trú: 331/8 đường G, Phường 1, Quận 6, Thành phố H.
Nơi cư trú: 325/14 đường B, phường B, quận B, Thành phố H.
Bị đơn: Bà Trịnh Thị Liên H, sinh năm 1974 (vắng mặt)
Nơi cư trú: 178/37 đường T, phường H, quận T, Thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 13/01/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Tấn G trình bày:
Ông và bà Trịnh Thị Liên H tự nguyện đi đến hôn nhân năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 10. Trong thời gian chung sống do mâu thuẩn gia đình xảy ra thường xuyên nên ông và bà H ly hôn theo Quyết định công nhận thỏa thuận số 72/QĐ-CNTL ngày 16/4/1996. Sau khi ly hôn đến khoảng tháng 8/1996 vợ chồng ông làm hòa và về sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi chung sống với nhau bà H đã có người khác và nhiều lần hai vợ chồng cãi nhau không giải quyết được. đến khoảng giữa năm 2008 thì ông và bà H không chung sống với nhau nữa. Nay ông G xác định tình cảm không còn, vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng không thể chung sống với nhau được nữa, đề nghị Tòa án cho ông ly hôn với bà H để ổn định cuộc sống.
- Về con chung: Ông và bà H có 02 con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1997 và Nguyễn Ngọc Gia H, sinh năm 2008. Hiện do bà H nuôi dưỡng. Nguyện vọng của ông được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Gia H, ông không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Nguyễn Tấn Đ đã trưởng thành nên không yêu cầu tòa án xem xét.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Ông G khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn bà Trịnh Thị Liên H trình bày: Bà và ông Nguyễn Tấn G ly hôn theo Quyết định công nhận thỏa thuận số 72/QĐ-CNTL ngày 16/4/1996. Đến tháng 8/1996 thì bà chung sống lại với ông G. Sau khi chung sống lại với nhau, ông bà không đăng ký kết hôn và có 02 con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1997 và Nguyễn Ngọc Gia H, sinh năm 2008. Bà đồng ý yêu cầu yêu cầu ly hôn nhưng không đồng ý giao con chung tên Nguyễn Ngọc Gia H cho ông G vì từ nhỏ đến nay chỉ có một mình bà chăm sóc nuôi dưỡng các con, bà không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con. Từ khi không chung sống với nhau khoảng giữa năm 2008 đến nay, ông G không hề thăm con và chu cấp cho các con. Về tài sản chung, nợ chung không có.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Nguyên đơn ông G yêu cầu Tòa án không công nhận vợ chồng giữa ông với bà H và yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc Gia H.
Bị đơn bà Trịnh Thị Liên H vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo nguyên tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định tại các điều 70, 71, 72 và 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về thời hạn thụ lý vụ kiện và chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử Hội đồng xét xử vi phạm quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vi phạm này không ảnh hưởng đến đường lối giải quyết vụ án nên kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
- Về nội dung: Ông G và bà H có đủ điều kiện nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm Luật hôn nhân gia đình. Mâu thuẫn vợ chồng là có, tình cảmvợ chồng không còn, hiện tại hai người không còn chung sống với nhau nênđề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu không công nhận vợ chồng của ông G.
- Về con chung: Ông và bà H có 02 con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1997 và Nguyễn Ngọc Gia H, sinh năm 2008. Xét thấy để ổn định cuộc sống cũng như tâm lý của cháu Hân lại là bé gái nên cần mẹ chăm sóc, dạy dỗ nên việc ông G yêu cầu nuôi cháu Hân là không có cơ sở chấp nhận.
- Về tài sản chung và nợ chung: Ông G khai không có nên không xem xét.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét yêu cầu không công nhận vợ chồng của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn với bà Trịnh Thị Liên H và yêu cầu được nuôi con chung có cơ sở xác định đây là quan hệ tranh chấp “Không công nhận vợ chồng và tranh chấp nuôi con”. Bị đơn bà H hiện đang cư trú tại quận T, Thành phố H nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận T, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn bà Trịnh Thị Liên H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt không lý do và không vì sự kiện bất khả kháng, do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 vàkhoản 1, 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về yêu cầu của đương sự:
- Về quan hệ hôn nhân:
Ông Nguyễn Tấn G và bà Trịnh Thị Liên H tự nguyện chung sống lại với nhau vào tháng 8/1996 sau khi đã có Quyết định công nhận thỏa thuận số72/QĐ-CNTL ngày 16/4/1996 của Tòa án nhân dân Quận 10, do hạn chế hiểu biết pháp luật nên không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, ông G và bà H có hai con chung tên Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1997 và Nguyễn Ngọc Gia H, sinh năm 2008 là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau khi ông G, bà H chung sống lại với nhau đến khoảng giữa năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn và ông G có yêu cầu ly hôn, bà H cũng đồng ý ly hôn. Tuy nhiên quan hệ hôn nhân của ông G, bà H là không hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình; Ông G, bà H sau khi ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn nhưng chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ký kết hôn là vi phạm khoản 2 Điều 9, khoản 2 điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình vì vậy không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng nên không xác lập quan hệ hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông G và bà H.
- Về quan hệ con chung:
Căn cứ Kết quả xác minh tại phường Tân Quý ngày 19/8/2017: “..Hiện nay bé Nguyễn Ngọc Gia H, sinh năm 2008 sống với mẹ hàng ngày do bà H chăm sóc, đưa đón cháu H đi học và cháu H phát triển bình thường, mẹ cháu chăm sóc tốt, chu đáo và đầy đủ”. Hội đồng xét xử xét thấy, từ giữa năm 2008 đến nay cháu Gia H do bà H chăm sóc, nuôi dưỡng và vẫn đảm bảo được điều kiện nuôi dạy cháu Hân một cách bình thường; Cháu H là nữ, lại đang ở độ tuổi phát triển tâm sinh lý, việc sống cùng bà H cháu sẽ dễ dàng chia sẽ những vướng mắc cá nhân với mẹ; Bản thân cháu Hân có nguyện vọng được ở với mẹ nên cần giao cháu Hân cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Hân đến tuổi trưởng thành. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 15, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu nuôi con của ông G. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông G cho đến khi bà H có yêu cầu.
Đối với cháu Nguyễn Tấn Đạt, sinh năm 1997 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Ông G, bà H xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nguyên đơn ông Nguyễn Tấn G phải nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ khoản 7 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sửdụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn G:
1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận ông Nguyễn Tấn G và bà Trịnh Thị Liên H là vợ chồng.
2. Về nuôi con chung: Không chấp nhận yêu cầu nuôi con của ông Nguyễn Tấn G.
Giao con chung Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 12/01/2008 cho bà Trịnh Thị Liên H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi. Ghi nhận bà H không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông G cho đến khi bà H có yêu cầu.
Ông Nguyễn Tấn G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thoả thuận. Nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì trên cơ sở lợi ích của con, người không trực tiếp nuôi con hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không dược cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con khi có yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân tổ chức (cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em...), Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Ông G, bà H khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Án phí hôn nhân sơ thẩm ông Nguyễn Tấn G phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền số 0026159 ngày 22/02/2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú. Ông G đã nộp đủ án phí. Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
5. Quyền kháng cáo:
Ông Nguyễn Tấn G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Trịnh Thị Liên H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 950/2017/ST-HNGĐ ngày 19/09/2017 về không công nhận quan hệ vợ chồng và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 950/2017/ST-HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về