Bản án 942/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 942/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3064/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Đăng Anh T1, sinh năm 1998

Địa chỉ: H107 đường H, phường P, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Đỗ Đức T2, sinh năm 1993

Địa chỉ: Rd Misisauga. ON L5C1Y4, Canada.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09/11/2018 và bản tự khai ngày 01/4/2019, nguyên đơn bà Lê Đăng Anh T1 trình bày:

Bà và ông Đỗ Đức T2 quen biết nhau vào tháng 8/2016 qua sự giới thiệu của người thân, đến năm 2017 hai bên tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 390/TLKH-BS, ngày 23/6/2017 của UBND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Bản chính giấy chứng nhận kết hôn đã bị mất.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau khoảng 03 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, cãi vã về tiền bạc; ông T2 ghen tuông không cho bà đi chơi với bạn. Sau đó, ông Đỗ Đức T2 trở về Canada. Từ khi về Canada đến tháng 3/2018 thì ông Đỗ Đức T2 đã chấm dứt mọi liên lạc. Bà xác định tình cảm đối với chồng không còn, không thể tiếp tục đời sống chung, yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: không có Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại Bản tự khai của bị đơn ông Đỗ Đức T2 đề ngày 17/4/2019 được Đại sứ quán nước CHXHCN Việt Nam tại Ốt-ta-oa – Canada chứng nhận chữ ký ngày 14/5/2019 có nội dung như sau:

Ông và bà Lê Đăng Anh T1 kết hôn với nhau vào năm 2017 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 58 do Ủy ban nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Hai bên bắt đầu chung sống với nhau vào tháng 01/2016. Mâu thuẫn phát sinh từ tháng 01/2018 do hai bên không đồng quan điểm sống. Nay bà Lê Đăng Anh T1 yêu cầu ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thủ tục thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Lê Đăng Anh T1 được ly hôn ông Đỗ Đức T2. Con chung: không có. Tài sản chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Lê Đăng Anh T1 đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Đỗ Đức T2 cư trú tại Canada; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Đăng Anh T1, bị đơn ông Đỗ Đức T2 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Lê Đăng Anh T1 và ông Đỗ Đức T2 tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2017, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 58 ngày 22/6/2017 của Ủy ban nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đã bị mất). Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà T1 thì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống khoảng 03 tháng thì ông Đỗ Đức T2 quay trở về Canada. Trong thời gian sống chung tuy ngắn nhưng giữa vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do đôi bên bất đồng quan điểm sống, giữa vợ chồng thiếu sự tin tưởng và tôn trọng nhau về tình cảm, có xảy ra cãi vã, gây gỗ. Từ khi đi đến nay, ông Đỗ Đức T2 đã chấm dứt mọi liên lạc với vợ. Bà T1 xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân và có yêu cầu được ly hôn. Ý kiến ông Đỗ Đức T2 cũng đồng ý ly hôn vì vợ chồng không còn có thể hàn gắn tình cảm tiếp tục cuộc sống chung.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan T1, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà T1.

Về con chung: Đôi bên thống nhất khai không có.

Về tài sản chung và nợ chung: bà Lê Đăng Anh T1, ông Đỗ Đức T2 đều khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 37; điểm a, khoản 2 Điều 38; Điều 464; khoản 1 Điều 469, Điều 478, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 57, Điều 123, Điều 124, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Đăng Anh T1 được ly hôn ông Đỗ Đức T2.

Giấy chứng nhận kết hôn số 58 ngày 22/6/2017 của Ủy ban nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Đăng Anh T1 và ông Đỗ Đức T2 khai không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Lê Đăng Anh T1 phải chịu, nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà T1 đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0046184 ngày 22/02/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà T1 đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Lê Đăng Anh T1 và bị đơn ông Đỗ Đức T2; bà Lê Đăng Anh T1 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Đỗ Đức T2 được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 942/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:942/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;