TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 94/2021/HSST NGÀY 15/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 89/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trịnh Văn T; sinh năm 1986 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn T, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Văn T và bà: Trần Thị T; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 27- 12-2020, chuyển tạm giam ngày 05-01-2021; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27-12-2020, tổ công tác Công an phường C thành phố N phối hợp cùng Đội Cảnh sát 113, phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực dãy để xe A2 của tầng hầm tòa nhà Nam Định Tower (số 91 Điện Biên phường Cửa Bắc thành phố N) phát hiện Trịnh Văn T đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 18B1- 53916 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Thọ tự giác nhả từ trong miệng giao nộp 01 gói nhỏ ni lông màu hồng, bên trong là lớp giấy bạc màu trắng chứa bột dạng cục màu trắng (T khai là 01 gói Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa T và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường Cửa Bắc thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của Thọ chiếc xe máy biển kiểm soát 18B1- 539.16 và 01 điện thoại nhãn hiệu HOTWAV đều đã cũ.
Bản Kết luận giám định số 1389/GĐKTHS ngày 30-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng bên ngoài bọc ni lông màu hồng được niêm phong gửi giám định là ma túy; loại ma túy Heroine; khối lượng mẫu: 0,259 (không phảy hai trăm năm mươi chín) gam.
Tại cơ quan điều tra, Trịnh Văn T khai: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 27-12- 2020, Thọ đi xe máy biển kiểm soát 18B1-539.16 một mình từ nhà đến khu vực ba tầng đường P phường T thành phố N gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) đang đứng ở đường 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, mục đích để sử dụng. T cầm gói ma túy vừa mua cho vào trong miệng rồi lên xe máy đi đến khu vực dãy để xe A2 của tầng hầm tòa nhà Nam Định Tower số 91 Đ phường C thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 91/CT-VKSTPNĐ ngày 17-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Trịnh Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Trịnh Văn T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo Trịnh Văn T phù hợp với lời khai của người làm chứng, Kết luận giám định số 1389/GĐKTHS ngày 30- 12-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27-12-2020, tại khu vực tầng hầm của tòa nhà Nam Định Tower số 91 Điện Biên phường Cửa Bắc thành phố N, Trịnh Văn T đã có hành vi cất giấu trong người 01 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu trắng bên ngoài bọc ni lông màu hồng chứa chất ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng: 0,259 (không phảy hai trăm năm mươi chín) gam, mục đích để sử dụng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất do nhà nước độc quyền quản lý, nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho nhu cầu của bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy; 01 điện thoại di động HOTWAV xét không phải là công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18B1 – 539.16, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố N đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Trần Mạnh Hướng, sinh năm 1995, trú tại thôn Trại Kho xã Minh Thuận huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định là đúng quy định của pháp luật.
[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Trịnh Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
1. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trịnh Văn T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.
Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-12-2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1389/GĐKTHS; trả lại bị cáo 01 điện thoại HOTWAV nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).
3. Án phí: Bị cáo Trịnh Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trịnh Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 94/2021/HSST ngày 15/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 94/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về