Bản án 94/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 94/2019/HSST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 95/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 01/01/1989; Tại tỉnh B. Nơi cư trú: Đội 03, xã T, huyện B, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12 phổ thông; Con ông: Quàng T - Sinh năm 1940 ( Còn sống); Con bà: Quàng Thị O (Đã chết); Vợ: Lò Thị X; Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 23/9/2019, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Lò Thị X; địa chỉ: Đội 03, xã T, huyện B, tỉnh B;

- Người liên quan đến vụ án:

1, Anh Trần Việt H; địa chỉ: Tổ dân phố 23, phường M, thành phố Đ, tỉnh B (Vắng mặt);

2, Anh Trần Quyết T; địa chỉ: Tổ dân phố 23, phường M, thành phố Đ, tỉnh B (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, Công an thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 12, phường N, thành phố Đ phát hiện Quàng Văn T điều khiển xe mô tô BKS 27B1 - 868.32 vào bệnh viện đa khoa tỉnh B có dấu hiệu hoạt động phạm tội về ma túy. Khi T vừa dựng xe vào bãi gửi xe, đi bộ ra thì tổ công tác áp sát kiểm tra, T thả từ bàn tay trái xuống đất, cách chân trái T khoảng 20cm 01 gói nhỏ gói ngoài bằng mảnh giấy màu trắng hồng, bên trong có 02 gói nhỏ, 01 gói chứa cục chất bột thể rắn màu trắng được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng và 01 gói có 09 viên nén màu hồng, được gói ngoài bằng nilon màu trắng trong. T khai cục chất bột thể rắn màu trắng là heroine và các viên nén màu hồng là hồng phiến.

T khai nhận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 868.32 vào bản X, xã T, huyện B mua số ma túy trên của một người đàn ông không quen biết, đứng bên đường hết 700.000đ, T dùng bật lửa ga của mình hàn lại gói ma túy, nhặt mảnh giấy màu trắng hồng gói ngoài rồi mang số ma túy theo người, mục đích để sử dụng. Hơn 11 giờ cùng ngày T vào khu vực bệnh viện, thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 23/9/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 929/GĐ-PC09 ngày 30/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,23 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 01 gam.

Tại bản cáo trạng số 92/CT-VKS-TPĐBP ngày 15/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Quàng Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,2 gam Heroine, 0,96 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 tờ giấy màu trắng hồng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 chiếc điếu tự chế, 01 bật lửa ga. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Quàng Văn T không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, tại khu vực tổ 12, phường N, thành phố Đ, tỉnh B Quàng Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,23 gam Heroine và 01 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 23/9/2019, kết luận giám định số 929/GĐ-PC09 ngày 30/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,23 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 01 gam.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Quàng Văn T phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố mẹ đẻ bị cáo là ông Quàng T và bà Quàng Thị O đều được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52/BLHS. Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[2]. Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, với khối lượng mà túy bà bị cáo tàng trữ là 0,23 gam Heroine và 01 gam Methamphetamine thì mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là còn thấp, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, nhưng thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông không biết tên dân tộc thái tại bản X, xã T, huyện B nhưng không biết địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Quá trình điều tra bị cáo khai số ma túy trên là do anh Trần Quyết T; địa chỉ: Tổ dân phố 23, phường M, thành phố Đ, tỉnh B, nhờ bị cáo mua hộ và anh Trần Việt H; Địa chỉ: Tổ dân phố 23, phường M, thành phố Đ, tỉnh B là người được anh T nhờ cầm tiền đến đưa cho bị cáo mua ma túy, nhưng cơ quan điều tra không điều tra, làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG Galaxy A103, trong máy có lắp 02 sim, điện thoại đã qua sử dụng, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đó là tài sản của chị Lò Thị X, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Wave màu sơn xanh, biển kiểm soát 27B1 - 868.32, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa chị Lò Thị X khai đó là tài sản riêng của chị, chị khai số tiền mua xe là do anh trai chị là anh Lò Văn Sương cho, tuy nhiên, việc anh Sương cho chị X tiền không có ai làm chứng, bị cáo T khai không biết số tiền mua chiếc xe trên do đâu mà có mặc dù khi đi mua xe cả hai vợ chồng cùng đi mua, ngày 09/11/2019 cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng số 58/QĐXLVC về việc xử lý vật chứng đối với chiếc điện thoại và chiếc xe máy trên cho chị Lò Thị X, địa chỉ: Đội 03, xã T, huyện B, tỉnh B. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Vật chứng: 0,2 gam Heroine, 0,96 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 tờ giấy màu trắng hồng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng không còn giá trị sử dụng, 01 bật lửa ga. 01 điếu tự chế cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (23/9/2019).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,2 gam heroine, 0,96 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 tờ giấy màu trắng hồng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 bật lửa ga, 01 điếu tự chế. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B) .

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 94/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:94/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;