Bản án 941/2023/HS-PT về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 941/2023/HS-PT NGÀY 13/12/2023 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 13 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 756/2023/TLPT-HS ngày 05 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Nguyễn Đình V; Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đối với bị cáo Phạm Đình V1 và kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2023/HS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1550/2023/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2023, đối với:

1. Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T, sinh ngày 11/6/1986 tại tỉnh Cà Mau; Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở hiện nay: 3, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Ú, sinh năm 1967; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 27/3/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2006. Bị cáo bị bắt theo Quyết định Truy nã và bị tạm giữ ngày 30/11/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh số 484/LTG-CSHS-Đ4 ngày 30/11/2022 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ, có mặt.

2. Bị cáo bị kháng nghị: Phạm Đình V1, tên gọi khác: Ba, sinh ngày 12/3/1984 tại tỉnh Thanh Hóa; Hộ khẩu thường trú: 23/14/28, tổ C, Khu phố I, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: Tổ C, Khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không ổn định; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Đình B, sinh năm 1955 và bà Mai Thị K, sinh năm 1959; Có vợ là Nguyễn Thị Ánh T1, sinh năm 1989 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã và bị tạm giữ ngày 06/5/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh số 183/LTG-CSHS-Đ4 ngày 12/5/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ, có mặt.

- Bị hại: Dương Đăng K1, sinh năm 1987; Địa chỉ: Trại tạm giam B, Công an tỉnh Đ.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T: Ông Nguyễn Thái H - Luật sư của Công ty L1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H, (có mặt).

Địa chỉ: Số E, đường H, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Đình V1: Bà Đinh Yến N1 - Đoàn Luật sư Thành phố H, (có mặt).

(Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại Dương Đăng K1, 06 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04 tháng 12 năm 2017, anh Dương Đăng K1, sinh năm 1987, là Giám đốc Công ty Cổ phần T3 (gọi tắt là Công ty T3); Địa chỉ: số A, đường L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai đăng thư mời các khách hàng (tổ chức, cá nhân) cùng hợp tác đầu tư vào Dự án phân lô đất nền tại Khu dân cư A gồm 18 thửa đất (từ thửa 603 đến thửa 624), tờ bản đồ số 61, thuộc xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Trong thời gian thực hiện Dự án trên, anh K1 có quen biết với Nguyễn Văn T, sinh năm 1986, hộ khẩu đăng ký thường trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau. Do cần vốn kinh doanh nên anh K1 có thỏa thuận với T: nếu T giới thiệu khách hàng giao dịch thành công việc sang nhượng hoặc góp vốn Dự án phân lô đất nền với số tiền 15.000.000.000 đồng thì anh K1 trích thưởng cho T 02%, nếu giá trị hợp đồng trên 17.000.000.000 đồng, anh K1 trích thưởng cho T 1.500.000.000 đồng.

Ngày 17 tháng 12 năm 2017, T giới thiệu chị Nguyễn Ngọc H1, sinh năm 1960, hộ khẩu đăng ký thường trú: phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đến Công ty T3 gặp anh K1 để thỏa thuận góp vốn. Trên hợp đồng góp vốn, hai bên thỏa thuận ghi tổng giá trị dự án là 70.000.000.000 đồng, chị H1 góp vốn 50% tương đương số tiền 35.000.000.000 đồng, nhưng thực tế chị H1 chỉ góp 12.000.000.000 đồng và đã đưa trước cho anh K1 2.000.000.000 đồng. Anh K1 đã trích thưởng cho T 500.000.000 đồng và T cam kết không thắc mắc khiếu nại về số tiền trích thưởng trên. Tuy nhiên sau đó, T nói cho Phạm Đình V1 biết rằng anh K1 còn nợ T 1.500.000.000 đồng và nhờ V1 gọi người đi gặp anh K1 để lấy số tiền 1.500.000.000 đồng, V1 đồng ý.

Khoảng 18 giờ ngày 18 tháng 12 năm 2017, V1 gọi điện thoại cho Lê Đình C đến quán C1 ở đường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai gặp V1 và T. Tại đây, V1 nói C đi lấy tiền trích thưởng anh K1 nợ T thì C đồng ý. Sau đó, V1 gọi điện thoại cho Ngô Duy K2 nói K2 tìm thêm người nên K2 gọi điện thoại cho Nguyễn Văn N2 và N2 rủ Vũ Thanh D, Vũ Đại L, Mai Thế H2 cùng với K2 đến quán cà phê A gặp V1, C và T. Tại quán cà phê A, V1 yêu cầu K2, N2, D, L, H2 đi hỗ trợ C đến thị trấn L, huyện L lấy 1.500.000.000 đồng anh K1 nợ T thì K2, N2, D, L, H2 đồng ý. Sau đó, V1 thuê anh Bùi Minh H3, sinh năm 1991, hộ khẩu đăng ký thường trú: khu phố I, phường T, thành phố B điều khiển xe ô tô biển số 60A-433.35 chở C, K2, N2, D, L, H2 đi lấy tiền của anh K1, nhưng do xe không đủ chỗ ngồi nên K2 ở lại quán cà phê A cùng V1 và T.

Lúc 22 giờ 20 phút ngày 18 tháng 12 năm 2017, C, N2, D, L, H2 đến Công ty T3 gặp anh K1, còn anh H3 ngồi chờ trong xe ô tô. C yêu cầu anh K1 đưa 1.500.000.000 đồng với lý do anh K1 nợ tiền trích thưởng của T nhưng anh K1 nói không nợ tiền T và không đồng ý giao tiền thì C lấy điện thoại của C gọi điện thoại cho T rồi đưa cho anh K1 nói chuyện với T. Anh K1 không đồng ý thì C lấy điện thoại của anh K1 tắt nguồn, dùng tay đánh vào mặt anh K1; còn N2, D, L, H2 ngồi chặn phía trước cửa văn phòng Công ty T3. Lúc này, Anh K3 nói không có tiền nên C yêu cầu anh K3 đưa trước 500.000.000 đồng và buộc anh K3 phải viết giấy nhận nợ 1.000.000.000 đồng, đến 10 giờ ngày 19/12/2017 phải giao đủ tiền cho C. Anh K3 nói tiền ở công ty không đủ vì để ở ngân hàng thì C nói “Mày muốn đóng cửa luôn đêm nay hay mai nói chuyện”, còn D nói “Giải quyết trong đêm nay”, C yêu cầu anh K3 gọi điện thoại cho chị Trương Vũ Thủy T2 (vợ anh K3) yêu cầu chị T2 đem tiền đến công ty nhưng anh K3 không đồng ý vì chị T2 mới sinh con. C tiếp tục yêu cầu anh K3 đọc số điện thoại của chị T2 để C dùng điện thoại của C (số I) gọi điện thoại cho chị T2 (số I) yêu cầu anh K3 nói chị T2 chuẩn bị tiền. Sau đó, C, N2 đưa anh K3 ra xe ô tô để anh H3 chở về nhà anh K3 tại số A, tổ D, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai lấy tiền. Trên đường đi, do anh K3 chỉ không đúng đường và nói C cướp tiền của mình nên C dùng tay đánh 01 cái vào mặt anh K3. Khi đến nhà anh K3, C yêu cầu anh K3 gọi điện thoại cho chị T2 đem 400.000.000 đồng đưa cho N2 và C. Sau đó C, N2 và anh K3 trở lại Công ty T3 lấy thêm 100.000.000 đồng và C yêu cầu anh K3 đưa thêm ít tiền ăn tối. Khi anh K3 cầm xấp tiền đang đếm thì C giật xấp tiền lấy 12.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền C cùng đồng bọn chiếm đoạt của anh K3 là 512.000.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt tiền của anh K3, C, N2, D, H2, L về quán cà phê A và C đã đưa 500.000.000 đồng cho V1, còn lại 12.000.000 đồng C cất giấu riêng và không nói cho cả nhóm biết. V1 chia cho C, K2, N2, D, H2, L mỗi người 10.000.000 đồng, còn lại 440.000.000 đồng, V1 gọi điện cho Phạm Đình D1 (em ruột V1), sinh năm 1990, hộ khẩu đăng ký thường trú: khu phố I, phường T, thành phố B đến quán cà phê A gặp V1 cầm 400.000.000 đồng đem về nhà đưa cho bà Mai Thị K (mẹ của V1) cất giữ, còn lại 40.000.000 đồng V1 cùng cả nhóm đi ăn uống. Sau đó, V1 yêu cầu D1 chuyển 120.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng S của V1 và V1 gặp bà K lấy 280.000.000 đồng còn lại. V1 đưa cho C 60.000.000 đồng nhờ C chuyển khoản cho T; V1 cho C thêm 20.000.000 đồng và đưa cho T 290.000.000 đồng, còn lại 30.000.000 đồng V1 tiêu xài hết.

Sáng ngày 19 tháng 12 năm 2017, V1 cùng T, C, K2, N2, D, H2, L đến Công ty T3 tìm anh K3 để lấy số tiền 1.000.000.000 đồng mà anh K3 đã viết giấy nhận nợ, nhưng Công ty T3 đóng cửa nên không lấy được tiền.

Ngày 29 tháng 8 năm 2018, C bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ bắt giữ. Ngày 17 và 18/9/2018, N2, D, L, K2 và H2 đầu thú. Riêng Phạm Đình V1 và Nguyễn Văn T bỏ trốn. Đến ngày 05/5/2022 và 29/11/2022 thì V1 và T bị bắt theo Quyết định truy nã.

Ngày 21/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã mở phiên tòa xét xử đối với Lê Đình C, Ngô Duy K2, Nguyễn Văn N2, Vũ Thanh D, Vũ Đại L và Mai Thế H2 về tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử đã tuyên mức hình phạt và tuyên buộc Lê Đình C cùng các đồng phạm liên đới bồi thường cho anh Dương Đăng K1 theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, gia đình Phạm Đình V1 đã giao nộp số tiền 50.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại cho anh K1.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 116/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T, Phạm Đình V1 phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 170, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 13 (mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 11 năm 2022.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 170, điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Đình V1 11 (mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 5 năm 2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 05 tháng 9 năm 2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Quyết định kháng nghị đối với bản án sơ thẩm. Lý do kháng nghị: Trong vụ án, bị cáo Phạm Đình V1 là người rủ rê và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Chính hành vi bị cáo rủ rê những đồng phạm khác thực hiện hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ án. Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Điều đó thể hiện ý thức liều lĩnh và xem thường pháp luật của bị cáo. Việc Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo Phạm Đình V1 với mức án 11 năm tù (dưới khung hình phạt) là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện (nhẹ hơn mức hình phạt 12 năm tù so với bị cáo Lê Đình C là đồng phạm do bị cáo rủ rê) và chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Do đó, cần thiết phải tăng hình phạt đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Do đó, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Phạm Đình V1.

- Ngày 28 tháng 8 năm 2023, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo: Án sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là nặng đối với bị cáo. Nên, bị cáo kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Bị cáo Nguyễn Văn T, trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét tình tiết bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi một con nhỏ 05 tuổi mẹ cháu bỏ đi khi cháu mới 01 tuổi (con bị cáo không làm khai sinh nên Cơ quan điều tra không ghi trong lý lịch); cha bị bệnh tim, mẹ bị cáo bệnh tiểu đường. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nêu, bị cáo ăn năn, hối cải nên xin được chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Phạm Đình V1, trình bày: Bị cáo có nhận được quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, nhưng bị cáo không đồng ý với nhận định của kháng nghị, bởi bị cáo chỉ có kêu C đi đòi tiền anh K1, còn sau đó C có hành vi cụ thể gì thì không phải do bị cáo yêu cầu, nên bị cáo xin Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên mức hình phạt như án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 4544/QĐ-VKS-P2 ngày 05/9/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị xử bị cáo V1 mức hình phạt từ 13 đến 14 năm tù.

Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, xét: Khi xét xử Tòa sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện chứng cứ, quyết định của Tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có chứng cứ nào mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên mức hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo T.

- Luật sư H bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T, trình bày: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi 01 con còn nhỏ (5 tuổi) có xác nhận của chính quyền địa phương (do con bị cáo không đứng khai sinh nên Cơ quan điều tra không ghi trong lý lịch), cha bị cáo bị bệnh Tim, mẹ bị cáo bị bệnh Tiểu đường, gia đình bị cáo có công với Cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem đó là các tình tiết mới tại cấp phúc thẩm để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Luật sư N1 bào chữa cho bị cáo Phạm Đình V1, trình bày: Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai là không có căn cứ, do bị cáo V1 chỉ có kêu bị cáo C đi lấy tiền của bị hại còn nợ T, chứ bị cáo V1 không có chỉ đạo và giao nhiệm vụ cụ thể cho C và các đồng phạm khác thực hiện hành vi cụ thể, lần đi đòi nợ lần 2 vào sáng ngày 19/12/2017 thì V1 có đi cùng T, C, K2, N2, D, H2, L nhưng khi đến Công ty T3 của anh K1 thì Công ty đóng cửa nên không có thực hiện hành vi phạm tội, vì thế vai trò của V1 không nổi trội hơn C như kháng nghị đã nêu. Nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên mức hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo V1.

- Lời nói sau cùng bị cáo Phạm Đình V1 xin Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên án sơ thẩm đối với bị cáo; Bị cáo Nguyễn Văn T xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T còn trong hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 333, 337 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Vào khoảng 18 giờ ngày 18/12/2017, Nguyễn Văn T cho rằng anh Dương Đăng K1 còn nợ mình 1.500.000.000 đồng tiền trích thưởng từ việc T đã giới thiệu bà Nguyễn Ngọc H1 hợp tác đầu tư vào dự án phân lô đất nền tại Khu dân cư A. Nên T đã nhờ Phạm Đình V1 hỗ trợ gọi người đi gặp anh K1 lấy số tiền này cho T. V1 đồng ý và đã gọi cho Lê Đình C, Ngô Duy K2, Nguyễn Văn N2, Vũ Thanh D, Vũ Đại L và Mai Thế H2 đến Công ty T3 để đòi anh K1 đưa số tiền 1.500.000.000 đồng nêu trên thì được cả nhóm đồng ý. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, tại Công ty T3 thì C, N2, D, L, H2 đã có hành vi dùng vũ lực, khống chế buộc anh K1 đưa số tiền 512.000.000 đồng và buộc anh K1 viết giấy nhận nợ 1.000.000.000 đồng; hẹn 10 giờ ngày 19/12/2017 phải giao đủ tiền cho C. Sáng ngày 19/12/2017 cả nhóm đến Công ty T3 để lấy số tiền anh K1 viết giấy nợ nhưng Công ty đóng cửa nên nhóm bị cáo không lấy được tiền.

Số tiền 512.000.000 đồng lấy được của anh K1 thì C đã giữ lại 12.000.000 đồng tiêu xài và đưa cho V1 500.000.000 đồng, số tiền này V1 giữ lại 30.000.000 đồng để tiêu xài, chia cho c 30.000.000 đồng; chia cho K2, D, H2 và L mỗi người 10.000.000 đồng; đưa cho T 350.000.000 đồng, còn lại 40.000.000 đồng V1 cùng cả nhóm đi ăn uống.

Hành vi của C, K2, D, H2 và L đã bị xét xử tại Bản án số 91/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Riêng Nguyễn Văn T và Phạm Đình V1 sau khi phạm tội đã bỏ trốn và bị truy nã. Ngày 05/5/2022 và ngày 29/11/2022 bị cáo V1 và bị cáo T bị bắt theo quyết định truy nã.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Đình V1 phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 170 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần xử các bị cáo mức án nghiêm khắc để răn đe giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3.1] Xét, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn T: Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, cụ thể: người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có ông nội được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì theo quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội; bị cáo là lao động chính có cha, mẹ bị bệnh (Riêng việc bị cáo có 01 con nhưng do hiện chưa có văn bản chứng nhận về hộ tịch nên Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét) nên cần áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người tìm bị cáo V1 bàn bạc, thỏa thuận để bị cáo V1 tìm các bị cáo khác đi đòi tiền của bị hại; bị cáo cũng là người được chia tiền nhiều nhất, sau khi phạm tội, bị cáo còn bỏ trốn, bị cáo không có khắc phục hậu quả cho người bị hại. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo mức án 13 năm tù chỉ cao hơn mức án của bị cáo Lê Đình C (tham gia với vai trò đồng phạm) 1 năm tù là không nặng. Do đó, bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là không có căn cứ chấp nhận.

[3.2] Xét, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, cụ thể: Quá trình điều tra bị cáo V1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã nộp số tiền 50.000.000 đồng để bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; gia đình bị cáo V1 có ông ngoại được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; theo đó Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo V1 là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo là người chủ động liên hệ, bàn bạc với bị cáo Lê Đình C để thực hiện hành vi phạm tội; sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn, bị bắt theo Quyết định truy nã; nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo mức án 11 năm tù thấp hơn bị cáo Lê Đình C (bị cáo đồng phạm trong vụ án) 01 năm tù là có phần chưa nghiêm, chưa phân hóa vai trò, mức độ tham gia của từng bị cáo trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Đình V1.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thống nhất với một phần đề nghị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, không chấp nhận đề nghị của các luật sư, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Phạm Đình V1; giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo T phải chịu án phí theo quy định.

[5] Quyết định khác của án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, án phí không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai; sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Phạm Đình V1.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 170, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017, Xử phạt bị cáo Phạm Đình V1 12 (mười hai) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 5 năm 2022.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 170, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 13 (mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 11 năm 2022.

4. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Phạm Đình V1 để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng.

4. Quyết định khác của án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, án phí không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 941/2023/HS-PT về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:941/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;