Bản án 93/2023/HS-ST về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 93/2023/HS-ST NGÀY 19/07/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ THỰC PHẨM

Ngày 19 tháng 7 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2023/TLST- HS ngày 31/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2023/QĐXXST-HS ngày 28/6/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 236/2023/QĐST-HS ngày 13/7/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị B - sinh năm 1960 tại Quảng Ngãi.

Nơi cư trú: Ấp P, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 5/12; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Con ông Nguyễn H (đã chết) và bà Lê Thị T (đã chết); Chồng Huỳnh Minh T1 (đã chết) và 05 con (lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1990); Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/01/2022, tại ngoại ngày 05/4/2022 đến nay “có mặt”.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1/ Công ty TNHH MTV C1. Địa chỉ: Lô F, Khu công nghiệp T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn S - sinh năm 1975, Trưởng bộ phận Bảo vệ thương hiệu của Công ty (vắng mặt).

2/ Công ty A1. Địa chỉ: khu công nghiệp B, phường A, TP tỉnh Đ.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế Hùng P - Giám sát viên của Công ty (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị B hành nghề buôn bán nước mắm tại nhà từ năm 2010 nhưng không đăng ký kinh doanh. Thông thường, B mua nước mắm (không rõ nguồn gốc) ở dạng can 20 lít với giá 220.000đ tại khu vực C, tỉnh Bình Thuận mang về nhà sang chiết vào các can có dung tích nhỏ hơn để bán lại cho các quán ăn trên địa bàn huyện Đ. Do ảnh hưởng của dịch bệnh C- 19 nên việc bán nước mắm không thuận lợi, giá thành nước mắm tại khu vực Bình Thuận tăng cao nên từ năm 2021 Bướm chuyển sang mua nước mắm của Trần Văn V (sinh năm: 1972, trú tại: ấp T, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) mỗi can có dung tích 20 lít với giá 80.000đ để bán cho các quán ăn.

Trong quá trình bán nước mắm, thấy người tiêu dùng ưa chuộng các mặt hàng nước mắm do Công ty cổ phần 112 sản xuất như nước mắm “Nam Ngư”, “Nam Ngư Đệ Nhị” nên từ tháng 11/2021, B đặt mua thêm tem, nhãn nước mắm N, N của Trần Văn V để phục vụ cho việc làm giả nhãn hàng nước mắm của Công ty cổ phần H2. Mặt khác, B1 thu mua các vỏ chai nước mắm đã qua sử dụng, thùng giấy cartong từ các cửa hàng phế liệu để làm nước mắm giả theo quy trình như sau:

- Đối với nước mắm “Nam Ngư Đệ Nhị” loại 900ml: Bướm sử dụng 03 lít nước mắm (không rồ nguồn gốc), pha cùng với 12 chai N Nhị dung tích 900 ml mua ngoài thị trường; cho thêm đường, bột ngọt để hạ độ mặn của nước mắm; dùng phễu lót vải để lọc cặn, làm trong nước mắm. Sau đó đong hỗn hợp nước mắm vào 15 chai nước mắm N Nhị dung tích 900ml và dán tem, đóng nắp chai bỏ vào thùng cartong.

- Đối với nước mắm “Nam Ngư” loại 500ml: Bướm sử dụng 04 chai nước mắm Nam Ngư dung tích 500ml/01 chai pha với 02 chai nước mắm Nam Ngư Đệ N cùng với 200ml nước mắm (không rõ nguồn gốc) và thêm đường, bột ngọt. Sau khi dùng phễu lọc cặn xong, B đong hỗn hợp nước mắm vào 08 chai nước mắm Nam Ngư 500ml bọc thành một lốc và đóng vào thùng cartong (mỗi thùng cartong có 3 lốc).

- Đối với nước mắm Nam Ngư dung tích 750ml: Bướm sử dụng 04 chai nước mắm Nam Ngư dung tích 500ml pha trộn với 02 chai nước mắm Nam Ngư Đệ Nhị dung tích 900ml cùng với 700ml nước mắm (không rõ nguồn gốc), thêm đường, lọc cặn đóng và đong 6 chai nước mắm Nam Ngư dung tích 750ml; gói thành 01 lốc 06 chai đóng vào các thùng cartong (mỗi thùng 18 chai).

Nguyễn Thị B còn tận dụng các vỏ chai nước mắm đã qua sử dụng có sẵn tem, nhãn. Đối với những chai bị rách tem, nhãn thì B bóc ra và dán thay tem, nhãn mới (mua của Trần Văn V). Sau khi hoàn thiện nước mắm giả, B đã bán ra thị trường với giá rẻ hơn sản phẩm chính hãng do Công ty cổ phần H2. Mỗi một thùng nước mắm bán ra, B thu lợi từ 15.000đ đến 20.000đ.

Ngoài việc sản xuất, buôn bán nước mắm giả thì B còn mua bột ngọt (mì chính) giả nhãn hiệu Ajinomoto của đối tượng tên H1 (không rõ nhân thân, lai lịch) để bán lại hưởng chênh lệch.

Vào khoảng 15 giờ ngày 05/01/2022, tại nhà của Nguyễn Thị B, Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã L kiểm tra, bắt quả tang Nguyễn Thị B có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là nước mắm và bột ngọt nên thu giữ toàn bộ vật chứng:

- 02 thùng cartong mỗi thùng chứa 18 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư mỗi chai có dung tích 750ml (chưa qua sử dụng).

- 03 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư có dung tích 750 ml.

- 01 thùng cartong chứa 24 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư mỗi chai có dung tích 500ml (chưa qua sử dụng).

- 42 thùng cartong mỗi thùng chứa 15 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư Đệ Nhị mỗi chai có dung tích 900ml (chưa qua sử dụng).

- 14 thùng cartong rỗng được in chừ nước mắm Nam Ngư;

- 300 vỏ chai nhựa có dán nhãn hiệu Nam Ngư;

- 29 bình nhựa màu trắng loại 20 lít có chứa dung dịch nước mắm;

- 20 tờ decan được in nhăn mác nước mắm Nam Ngư;

- 01 cuộn nhãn hàng nước mắm nhĩ;

- 02 kg tờ kiếng gói sản phẩm;

- 21 bịch nylon được in dòng chừ AJIMOMOTO loại 01 kg bên trong chứa bột ngọt, mì chính (chưa qua sử dụng).

- 15 bịch nylon được in dòng chữ AJIMOMOTO loại 454g gam bên trong chứa bột ngọt - mì chính (chưa qua sử dụng).

- 01 bịch nylon được in dòng chữ AJIMOMOTO loại 5kg bên trong chứa bột ngọt - mì chính (chưa qua sử dụng).

* Căn cứ bản Kết luận giám định số: 578/C09B ngày 14/01/2022 của Phân viện KHHS tại Tp Hồ Chí Minh xác định:

- 20 tờ decan được niêm phong có chữ ký ghi họ tên Nguyễn Thị B, người chứng kiến Trần Phú T2 và dấu tròn màu đỏ của Công an xã L, trong đó có:

+ 04 tờ decan có nhãn chai nước mắm Nam ngư Đệ nhị (giảm mặn) thể tích 900ml;

+ 13 tờ decan có nhãn chai nước mắm Nam ngư (giảm mặn) thể tích 500ml;

+ 03 tờ decan có nhãn chai nước mắm Nam ngư (mới).

Qua giám định so sánh với các bản mẫu do Công ty cổ phần H2 cung cấp xác định số tem nhãn bị thu giừ không được in ra từ cùng một bản in (Bút lục số 39).

* Căn cứ bản kết luận giám định số: 576/KL-C09B ngày 25/02/2022 của Phân viện KHHS tại Tp Hồ Chí Minh xác định:

Số nước mắm đóng chai thu giữ tại nhà của Nguyễn Thị B được gửi đi giám định gồm: Nam ngư Đệ nhị loại 750ml; Nam ngư loại 750 ml; Nam ngư loại 500ml đều có thành phần hóa học khác với mẫu nước mắm cùng loại tương ứng do Công ty cổ phần H2 đã cung cấp làm mẫu so sánh (Bút lục số 37, 38).

3. Căn cứ bản kết luận giám định số: 1787/KL-KTHS ngày 01/04/2022 của Phân viện KHHS tại Tp Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể màu trắng ở trong các bịch nylon in dòng chữ A đã thu giữ tại nhà của Nguyễn Thị B không cùng loại với các mẫu bột ngọt do Công ty A1 cung cấp (Bút lục số 40).

4. Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự của Hội đồng định giá huyện Đ xác định:

- 39 chai nước mắm được dán nhãn Nam ngư dung tích 750 ml (chưa qua sử dụng) là: 39 chai x 40.000đ/chai = 1.560.000đ.

- 72 chai nước mắm được dán nhãn Nam ngư dung tích mỗi chai là 500ml (chưa qua sử dụng) là 72 chai x 28.000đ/chai = 2.016.000đ.

- 630 chai nước mắm được dán nhãn Nam ngư Đệ nhị mỗi chai có dung tích 900 ml (chưa qua sử dụng) là: 630 chai x 20.000đ/chai = 12.600.000đ.

- 21 bịch nylon được in dòng chữ Ajimomoto loại 01 kg bên trong chứa bột ngọt - mì chính (chưa qua sử dụng) là 21 kg x 63.000đ/kg = 1.323.000đ - 15 bịch nylon được in dòng chữ Ajimomoto loại 454g gam (chưa qua sử dụng) là: 15 gói x 30.500đ/gói = 457.000đ.

- 01 bịch nylon được in dòng chữ Ajimomoto loại 5kg (chưa qua sử dụng) là: 01 gói x 251.000đ = 251.000đ.

Tổng giá trị tài sản là 18.207.500đ (Bút lục số 48, 49).

Quá trình điều tra đã xác định được: Tính đến thời điểm bị bắt, B đã thu lợi bất chính 4.000.000đ từ việc bán nước mắm giả và 23.000đ từ việc bán bột ngọt giả nhãn hiệu Ajimomoto. Ngày 20/6/2022, Nguyễn Thị B đã tự nguyện giao nộp tổng số tiền thu lợi bất chính là 4.023.000đ.

Bản cáo trạng số 130/CT-VKSĐQ ngày 21/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Đ truy tố Nguyễn Thị B về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm”, quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự.

Phần tranh tụng tại phiên tòa:

1/ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 193; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đề nghị phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo.

Kiểm sát viên còn nêu quan điểm về biện pháp tư pháp và án phí.

2/ Bị cáo B thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi của mình là sai trái và ăn năn hối cải, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị B: Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 15 giờ ngày 05/01/2022, tại số nhà B, ấp p, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ, Nguyễn Thị B có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là nước mắm và bột ngọt nhằm thu lợi bất chính thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm”, quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, xem thường sức khỏe của người tiêu dùng; ảnh hưởng đến thị phần và uy tín của của nhà sản xuất là Công ty TNHH MTV C1 và Công ty A1. Vì vậy để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần thiết phải xét xử và áp dụng cho bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, bị cáo là nữ, người cao tuổi; đang mắc bệnh hiểm nghèo (ung thư) nên giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt chính:

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo là phụ nữ, đang phải điều trị bệnh hiểm nghèo, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Căn cứ vào Điều 65 Bộ luật hình sự và Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng chế định án treo để tạo điều kiện cho bị cáo chữa bệnh, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật là cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Không.

[7]. Về biện pháp tư pháp:

- Số tiền bị cáo thu lợi bất chính 4.023.000đ được sung quỹ nhà nước.

- Công ty TNHH MTV C1, Công ty A1 không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đặt ra xử lý.

- 02 thùng cartong mỗi thùng chứa 18 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư mỗi chai có dung tích 750ml (Chưa qua sử dụng); 03 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư có dung tích 750ml; 01 thùng cattong chứa 24 chai nước mắm nhăn hiệu Nam Ngư mỗi chai có dung tích 500ml (chưa qua sử dụng); 42 thùng cartong mỗi thùng chứa 15 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư Đệ Nhị mỗi chai có chứa dung tích 900ml (chưa qua sử dụng); 14 thùng cartong rỗng được in chữ nước mắm Nam Ngư; 300 vỏ chai nhựa có dán nhãn hiệu Nam Ngư; 29 bình nhựa màu trắng loại 20 lít có chứa dung dịch nước mắm; 20 tờ decan được in nhãn mác nước mắm Nam Ngư; 01 cuộn nhãn hàng nước mắm Nhĩ; 02 kg tờ kiếng gói sản phẩm; 18 bịch nylon được in dòng chữ AJINOMOTO loại 01kg, bên trong chứa bột ngọt-Mì chính (chưa qua sử dụng); 12 bịch nylon được in dòng chữ AJINOMOTO loại 454g bên trong chứa bột ngọt (chưa qua sử dụng). Các vật chứng này không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với đối tượng ở khu vực C - Bình Thuận, đã bán nước mắm ở dạng can cho bị cáo: Do không rõ nhân thân lai lịch nên không xử lý.

- Đối với Trần Văn V đã thực hiện hành vi cung cấp tem nhãn giả cho bị cáo đề làm giả nước mắm: Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can để điều tra đối với Trần Văn V ở vụ án khác nên không xử lý trong vụ án này.

- Đối tượng tên H1 đã bán bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto cho B hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan CSĐT truy tìm nhưng chưa có kết quả nên tiếp tục xác minh xử lý sau.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quan điểm giải quyết vụ án cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm”.

2/ Về điều luật áp dụng:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 193; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3/ Về hình phạt:

- Phạt bị cáo Nguyễn Thị B 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

4/ Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 4.023.000đ (theo biên lai thu số 0000718 ngày 26/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q).

Tịch thu tiêu hủy: 02 thùng cartong mỗi thùng chứa 18 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư mỗi chai có dung tích 750ml (Chưa qua sử dụng); 03 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư có dung tích 750ml; 01 thùng cattong chứa 24 chai nước mắm nhăn hiệu Nam Ngư mỗi chai có dung tích 500ml (chưa qua sử dụng); 42 thùng cartong mỗi thùng chứa 15 chai nước mắm nhãn hiệu Nam Ngư Đệ Nhị mỗi chai có chứa dung tích 900ml ( chưa qua sử dụng); 14 thùng cartong rỗng được in chữ nước mắm Nam Ngư; 300 vồ chai nhựa có dán nhãn hiệu Nam Ngư; 29 bình nhựa màu trắng loại 20 lít có chứa dung dịch nước mắm; 20 tờ decan được in nhãn mác nước mắm Nam Ngư; 01 cuộn nhãn hàng nước mắm Nhĩ; 02 kg tờ kiếng gói sản phẩm; 18 bịch nylon được in dòng chữ AJINOMOTO loại 01kg, bên trong chứa bột ngọt (chưa qua sử dụng); 12 bịch nylon được in dòng chữ AJINOMOTO loại 454g bên trong chứa bột ngọt (chưa qua sử dụng).

5/ Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Công ty TNHH MTV C1, Công ty A1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 93/2023/HS-ST về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm

Số hiệu:93/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;